Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Âm Trung Của Quỷ

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Trái Tim Độc Ác
Mỹ nhân đoạt mạng - Gretchen Lowell trốn tù thành công và vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Không chỉ là một kẻ giết người hàng loạt, ả còn là ngôi sao nổi tiếng trong những bài báo giật gân nhằm tăng doanh số. Hình ảnh Gretchen Lowell xuất hiện khắp mọi nơi, thậm chí có cả hội người hâm mộ. Archie Sheridan vẫn tự nhốt mình trong bệnh viện tâm thần. Cho đến khi xuất hiện một thi thể cùng kí hiệu quen thuộc của Gretchen, anh quyết định rời bệnh viện để tiếp tục cuộc truy bắt Gretchen Lowell.  Mỹ nhân đoạt mạng đã trở lại? Hay là ác quỷ được tạo ra từ chính những kẻ hâm mộ? *** TRÁI TIM ĐỘC ÁC – CÚ PLOT TWIST ĐẾN TỪ NHÀ PHÁT HÀNH (Các bạn đừng đọc bìa sau kẻo bị đánh lừa) Mỹ nhân đoạt mạng – Gretchen Lowell trốn tù thành công và vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Không chỉ là một là một kẻ giết người hàng loạt, ả còn là ngôi sao nổi tiếng trên những trang báo giật gân nhằm tăng doanh số. Hình ảnh của Gretchen Lowell xuất hiện khắp mọi nơi từ tạp chí, quần áo cho đến cả những chuyến tham quan những nơi ả từng sát hại các nạn nhân, thậm chí còn có cả hội người hâm mộ. Thanh tra Archie Sheridan đang nhốt mình trong bệnh viện tâm thần. Cho đến khi xuất hiện một thi thể bị cắt mất lá gan, móc mắt và điều quan trọng là có cùng kí hiệu quen thuộc của Gretchen, anh quyết định rời bệnh viện để tiếp tục cuộc truy bắt Gretchen Lowell. Liệu cuối cùng anh có bắt được ả không? So với hai cuốn trước, cuốn này tình tiết hấp dẫn, phức tạp, hồi hộp hơn trước bội phần. Nhưng ấn tượng nhất xuyên suốt series ba tập Trái tim đau khổ, trái tim ngọt ngào và trái tim độc ác chính là các nhân vật được xây dựng rất thú vị. Trong cuốn này thanh tra Archie Sheridan đã thể hiện được thông minh, can đảm, chấp nhận đương đầu với kẻ thù để cứu người mà anh quý. Nhà báo Susan Ward thể hiện được sự thông minh, can đảm, sắc sảo thậm chí sẵn sàng từ bỏ sự nghiệp của mình để đi theo lẽ phải. Còn về Mỹ nhân đoạt mạng Gretchen, ả ta tuy chỉ xuất hiện phần cuối truyện nhưng lại cho mình thấy khả năng dẫn dắt, chi phối người khác, đặc biệt là những người có những cú sốc lớn về tinh thần. Sau khi đọc xong bộ ba trái tim của Chelsea Cain, mình khá thích cách xây dựng tình huống và cách tạo dựng nhân vật. Mỗi nhân vật dần hoàn thiện tính cách của mình qua từng tập. Và với những bạn nào thích kẻ phản diện là một tên sát nhân biến thái như Hannibal Lector thì không nên bỏ qua bộ ba trái tim này. Điểm: 7,75/10 NPH: Phúc Minh Minh Sơn *** Trạm dừng chân trên đường 84 bên phía Oregon của sông Columbia thật kinh khủng, ngay cả với tiêu chuẩn tồi tàn của một trạm nghỉ. Những bức vẽ graffiti phủ kín bức tường trắng của đường tàu điện ngầm, hộc đựng giấy vệ sinh và khăn giấy trống hoác còn mớ giấy thì vương vãi khắp sàn bê tông. Hai cánh cửa ngăn bằng kim loại bị kéo ra khỏi bản lề, chỉ còn treo vắt vẻo ở đó. Không gian có mùi như hầm đậu xe chỗ dưới gầm cầu thang, quyện với mùi nước tiểu và xi măng. Nhà vệ sinh gần nhất cách đây mười tám dặm và họ vừa tới một trạm dừng chân bị côn đồ phá hoại. Chẳng có cách nào khác. Amy chống tay lên hông và nhìn chằm chằm vào cô con gái mười một tuổi của mình. “Thôi nào, Dakota”, con bé nói. Đôi mắt xanh của Dakota mở to. “Con không vào đó đâu”, con bé đáp. Suốt quãng đường, con bé luôn như thế. Hàng năm, vào mùa hè, họ sẽ lái xe từ Bakersfield đến gặp gia đình Erik ở Hood River, việc này đã bắt đầu từ khi Dakota còn là một đứa trẻ mới biết đi. Thế nhưng, năm nay nó đã dành cả chuyến đi để nhắn tin cho bạn bè và nghe nhạc trên chiếc iPod. Nếu Dakota không quá hư đốn như hai ngày qua thì có lẽ Amy sẽ dễ chịu hơn một chút. “Con ngồi xổm trên bệ là được mà”, Amy nói. Dakota cắn môi, để lại vệt son hồng trên răng cửa. “Mùi ghê lắm”, cô bé nói. “Hay để mẹ xem phòng vệ sinh nam có sạch hơn không nhé?” Amy hỏi. Má của Dakota ửng hồng. “Không được đâu”, con bé trả lời. “Chính con đòi đi cơ mà”, Amy nói. Thực ra, sau khi bỏ qua nhà hàng mà lẽ ra họ sẽ vào đó ăn tối, chẳng mấy chốc Dakota đã quả quyết rằng bàng quang của nó sẽ vỡ tung và nếu chuyện ấy xảy ra thì nó sẽ yêu cầu quyền tự do cho trẻ vị thành niên theo luật California. Amy thậm chí còn chẳng biết đó là cái gì, nhưng nghe có vẻ nghiêm trọng. Vì vậy họ ở đây, tại một trạm dừng chân giữa chốn đồng không mông quạnh. Có tiếng đập mạnh vào cửa. “Hai người đang làm gì trong đó vậy?” Erik gọi. Họ chỉ còn cách nhà chị gái anh hai mươi phút lái xe. Amy hiểu rằng nếu họ không đến đó sớm thì Erik sẽ bỏ lỡ chuyện kia. Suốt quãng đường mười dặm vừa rồi, anh ấy đã nắm chặt vô lăng đến trắng bệch cả tay. Cô đang đùa với ai vậy chứ? Người bỏ lỡ là cô mới phải. “Con bé không muốn dùng nhà vệ sinh ở đây”, Amy nói to cho chồng mình nghe thấy. “Thế thì ra ngoài này và đi đằng sau cái cây ấy”, Erik đáp lại. “Bố!” Dakota kêu lên. Amy đẩy cánh cửa buồng vệ sinh cuối cùng. Nó sạch hơn những gian khác, hoặc ít nhất cũng đỡ bẩn hơn. Trong hộc vẫn còn giấy. Không có chất thải của con người. Thế cũng tốt lắm rồi. “Còn phòng này thì sao?” Amy hỏi con gái. Dakota bước vài bước ngập ngừng tới phía sau cô và nhìn vào bồn cầu. “Trong đó có cái gì ấy”, nó nói và chỉ vào thứ nước màu hồng nhạt trong bồn cầu. Amy không còn thời gian để giải thích cho con bé về ảnh hưởng của củ cải đỏ đối với việc đi tiểu. “Con chỉ cần xả nước là được”, Amy nói. Cô xoay người đi tới dãy bồn rửa màu trắng rồi chờ đợi. Cô nghe thấy tiếng xả nước trong buồng vệ sinh và cảm thấy một chút căng thẳng gặm nhấm đôi vai. Họ sẽ lên đường sớm thôi. Chị gái của Erik sẽ uống rượu chờ họ. Chị ấy vẫn luôn làm thế. “Mẹ!” Amy nghe thấy tiếng con gái gọi. Lại chuyện gì nữa đây? Amy quay lại và thấy con gái mình đang đứng trong buồng vệ sinh, cánh cửa kim loại bật mở. Khuôn mặt Dakota trắng bệch, hai tay siết chặt thành nắm đấm. Buồng vệ sinh bị tràn, nước dềnh qua nắp cống trên sàn tạo thành một vũng nước trông như thủy triều dâng. Trong nước có một thứ gì đó. Nó xoay giữa làn nước với những sợi nhỏ màu đỏ giống như máu. Và trong một giây, Amy nghĩ: Hay là Dakota đến tháng? Dòng nước ấy chảy dọc ra ngoài bồn cầu trắng, lan xuống sàn, tràn dưới đôi giày thể thao của Dakota và hướng về nơi Amy đang đứng bất động. Có cái gì đó trong bồn cầu, nó nổi lên và trôi dần đến miệng bồn cầu. Thịt sống. Tựa như những kẻ điên đã dìm chết một con chuột. Nó bám trên mép bồn cầu một lúc rồi trượt xuống sàn, trôi về phía trước, lướt qua đôi giày thể thao của Dakota và biến mất sau buồng vệ sinh tiếp theo. Dakota thét lên, lao ra khỏi buồng vệ sinh, sà vào vòng tay của Amy, con bé thậm chí còn chẳng ngoái đầu lại khi chiếc iPod tuột khỏi tay, rồi rơi xuống chân bồn cầu với một tiếng tõm chết chóc. Amy buộc phải nuốt xuống cơn lợm giọng đang dâng trong cổ họng, tự khiến mình không phải bụm miệng lại. Đó không phải là chuột. Chắc chắn không phải là chuột. “Mẹ!” “Ừ!” Amy thì thầm. Chiếc iPod vẫn đang chạy. Amy có thể nghe thấy tiếng nhạc pop khe khẽ phát ra từ chiếc tai nghe màu trắng nửa nổi nửa chìm. Sau đó nó cứ vậy tắt lịm. “Con không cần đi vệ sinh nữa đâu”, Dakota nói. Mời các bạn mượn đọc sách Trái Tim Độc Ác của tác giả Chelsea Cain & Đinh Quỳnh Anh (dịch).
Căn Hộ Số 203
“Cũng không có gì quá to tát cả.” Đầu dây bên kia, người môi giới nhà đất cười khô khốc. “Chỉ là cô gái ở đó hồi trước bùng tiền nhà rồi chuồn mất thôi. Cô gái trẻ Okimura Kiyomi lên Tokyo học đại học và vô cùng háo hức với cuộc sống mới tự lập, xa gia đình. Nhưng liên tục có những việc kỳ lạ xảy ra trong căn hộ Kiyomi thuê khiến cô sợ hãi mà không thể nào lý giải được: Mùi hôi kỳ lạ bay khắp phòng, liên tục nghe thấy tiếng chân chạy rầm rập khắp nơi, khi ngủ, cô luôn gặp ác mộng bị một người đàn ông đuổi theo đánh đập, là mơ nhưng thức dậy, Kiyomi vẫn thấy người đau ê ẩm… Kiyomi đang đối mặt với thế lực bí ẩn gì? Liệu cô có thoát được khỏi căn phòng đó hay không? Đây là cuốn sách có thể khiến bạn không bao giờ muốn đọc lại lần thứ hai. *** Cô đơn không phải chỉ là ở một mình, mà là ở giữa rất nhiều người nhưng không tìm được ai hiểu tiếng nói của mình. Kiyomi nằm lặng yên trong căn phòng số 203. Không nhìn. Không thấy gì. Không thèm quan tâm. Không nhìn. Cánh cửa sổ bị cong. Rèm cửa đung đưa. Côn trùng lúc nhúc tại góc nhà. Không thấy gì. Sàn nhà ấm một cách lạ thường. Mùi hôi thối xộc lên vào mũi. Tiếng kẽo kẹt. Tiếng rì rầm. Tiếng cãi nhau. Không thèm quan tâm. Đôi chân hàng đêm xuất hiện trong giấc mơ. Tiếng hét khản đặc không thoát ra khỏi cổ họng. Bóng đèn chập chờn không sáng. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại trong đầu Kiyomi, cô tự nhủ rằng nếu mình không để ý đến những điều ấy, mọi thứ rồi cũng sẽ biến mất. Giống như cách con người tìm ra lời giải thích cho những điều bất thường xảy đến với họ. Chuột chạy. Ống nước bị rò. Gió thổi. Hàng xóm cãi nhau. Nhưng cứ mỗi khi Kiyomi nhắm mắt, cô cảm thấy có cái gì đó cứ bóp nghẹt trái tim, “có cái gì đó đen tối, khó chịu cứ bám riết lấy tâm hồn cô”. Người đàn ông bí ẩn đêm nào cũng đến cãi cọ với cô, đánh đập cô đến ê ẩm nhưng không bao giờ Kiyomi nhìn thấy mặt hắn. Tất cả cứ chập chờn thoắt ẩn thoắt hiện khiến cô không biết đâu là thực, đâu là mơ. Căn hộ số 203 của tác giả Kamon Nanami hội tụ đầy đủ các yếu tố ghê rợn thường thấy của truyện kinh dị Nhật Bản. Được ví như Dark Water của nhà văn lừng danh Suzuki Koji, tác giả của Ring, cuốn sách một phần nào thể hiện nỗi cô đơn mòn mỏi của loài người, mỗi khi gặp trắc trở, họ không có ai tin tưởng để chia sẻ. Giống như Kiyomi, cô không thể kể cho bố mẹ, vì họ sẽ cười vào thói tự lập cố chấp của cô, cũng không thể kể cho bạn bè, khi họ chỉ coi những điều cô nói là hoang tưởng. Cuốn sách cũng giải thích nguyên nhân tại sao những điều kỳ quái thường xảy ra với các cô gái trẻ. Sống một mình, nhạy cảm trên mức cần thiết, lạc lõng giữa xã hội là những điểm chung mà mọi người thường nhìn vào họ. Cho dù có quyết liệt chống trả nhưng phút huy hoàng lại nhanh chóng bị dập tắt, nếu không mang một tâm lý vững vàng, các cô gái sẽ chẳng thể vượt qua được nỗi sợ hãi của chính mình. Căn hộ số 203 không mang quá nhiều chi tiết giật gân, mà thay vào đó gieo rắc nỗi ám ảnh một cách từ từ, chậm rãi, len lỏi sâu vào tâm trí người đọc. Bản thân mỗi chúng ta cũng giống như Kiyomi, mù mờ không biết gì mà theo chân cô dần dần lật mở những điều bí ẩn. Chỉ có điều ta làm điều đó vì tính tò mò, còn Kiyomi phải chiến đấu vì sự sống của chính mình. Vốn không dành cho những ai yếu tim, nhưng với những ai đủ dũng cảm để đọc, Căn hộ số 203 sẽ khiến bạn khó mà buông tay nhưng cũng không dễ đọc lại lần hai. *** Mở khóa, Okimura Kiyomi chậm rãi nhìn vào trong phòng. Từ cửa sổ, ánh mặt trời rọi vào căn phòng trống. Kiyomi nheo mắt, nhìn ngắm khung rèm như muốn xác nhận điều gì đó, rồi khẽ gật đầu: “Mình muốn đặt một cái giường ở chỗ đó.” Chỉ cần chọn rèm màu nhạt một chút, có họa tiết nhã nhặn một chút là ổn. Cô nở một nụ cười nơi khóe miệng. Bất chợt, ở phía phòng tắm, từng giọt nước rơi xuống bồn rửa tạo ra những âm thanh lạnh lẽo… *** Cô chọn sống một mình khi vào đại học. Đó không phải là vì cô bất hòa với bố mẹ hay anh chị em, mà chỉ là đến tuổi này, cô không muốn phải mệt mỏi vì sự can thiệp quá mức của gia đình vào cuộc sống riêng. Thêm nữa, mong muốn được lên thành phố một lần cứ thôi thúc cô, cô không muốn mãi chôn chân ở nơi mình sinh ra. Ấy thế mà, thay vì thích thú, cô lại thấy sốt ruột vì phải đổi mấy lượt xe buýt lẫn tàu điện mỗi khi rời khỏi thành phố này. Cùng một hãng sản xuất mà sao đồ bán ở đây lại có vẻ khác với đồ bán ở Tokyo nhỉ? Mỗi lần nghĩ đến điều đó, trong lòng Kiyomi lại nhen lên cảm giác khao khát và ghen tị. Không phải cô có mối quan tâm đặc biệt gì với hàng hiệu, chỉ là những nhãn hiệu ở Tokyo quả thật có sức hấp dẫn khó cưỡng. Cô từng tới Tokyo một lần trong chuyến tham quan hồi trung học nhưng chẳng ấn tượng gì với tòa nhà quốc hội. Những gì đọng lại trong ký ức cô chỉ là sự đông đúc tấp nập của mấy khu mua sắm Harajuku và Shinjuku. Từ ga Harajuku nhìn xuống, con đường Takeshita lúc nào cũng như được nhuộm màu đen bởi những đầu người đang di chuyển. Ở ga Shinjuku và khu vực xung quanh, người đi trên đường và sân ga nhiều tới mức không nhìn ra nổi chỗ trống nào trên mặt đất nữa. Cảnh tượng ấy khiến Kiyomi liên tưởng đến đàn kiến bò lổm ngổm trên chiếc bánh xốp. Những cửa tàu điện hay lối ra vào trung tâm thời trang như đang nhịp nhàng nuốt vào, nhả ra dòng người nối đuôi nhau đi vào và đi ra khỏi đó. Kiyomi bị cuốn hút bởi những con người, những dãy phố ấy. Cô nhớ mình từng nôn nao và đau đầu như thể đang bị xuất huyết não nên phải dừng lại một chỗ chỉ vì Shibuya quá đông người. Đúng là con đường gần khu trung tâm có khác. Những người đi trên đường ai nấy đều trông có vẻ hơn tuổi Kiyomi dù họ đều là những nam thanh nữ tú chưa tới hai mươi tuổi. Họ đi theo nhóm vài người một, hầu hết đều nhuộm tóc màu nâu nhạt, ăn vận chải chuốt theo phong cách đặc trưng chỉ có ở Tokyo. Họ đi lướt qua Kiyomi đang đứng như trời trồng mà không chạm tới một cọng tóc của cô. “Chả có ai đâm vào mình cả.” Kiyomi nghĩ, vẫn chưa hết hoa mắt chóng mặt. “Họ không nhìn mình, không đâm vào mình. Thậm chí họ cũng không nhận ra là họ đang làm lơ mình.” Nói là thế chứ không thể có chuyện họ không thấy cô, rõ mười mươi là họ đột ngột nghiêng vai khi đi qua để tránh chạm vào cô. Nhưng cô vẫn cứ nghĩ trong nhận thức của những người đi trên đường không có sự hiện diện của mình. Cô có cảm giác như mình là người vô hình trong mắt họ. Đúng lúc đó, cô nhận ra, người vô hình không chỉ có mình cô. Người nào người nấy, theo phản xạ, giữ khoảng cách với nhau như những thỏi nam châm cùng chiều, chẳng thèm để tâm xem tại sao lại như vậy. Không nhìn. Không thấy gì. Không thèm quan tâm. Đó là kỹ năng đối nhân xử thế khôn ngoan để sống được ở thành phố bộn bề và đông người này. Không làm được như vậy thì không có tư cách sống ở đây. Nuốt ngược vào trong, Kiyomi đưa ra đánh giá như vậy về Tokyo. Không nhìn. Không nghe. Không thèm quan tâm. (Nghe chừng hay đấy.) Kiyomi thở dài khi nghĩ đến viễn cảnh đó. Khi ngắm nhìn từ ban công tầng hai, Tokyo khác xa hoàn toàn so với những gì mà cô đã hình dung. Từ khu phố chật hẹp với những căn nhà nhỏ nằm san sát, chỉ cần đi thêm một chút là ra đến cánh đồng. Không có những căn nhà cổ lợp mái tranh, nhưng gọi nơi này là thành phố thì hơi quá. Việc thuyết phục bố mẹ đồng ý cho cô học đại học ở Tokyo diễn ra khá thuận lợi. Nhưng ngôi trường cô đỗ vào lại ở ngoại ô. Căn hộ cô tìm được cũng không thể gọi là gần khu trung tâm. Bởi vì giá thuê nhà tại Tokyo đắt đỏ, cô lại ngại không muốn để bố mẹ gánh khoản tiền thuê nhà, nên đành bỏ qua những căn hộ nhỏ xinh gần trung tâm. Cân đo đong đếm mãi, rốt cuộc cô chọn căn hộ có một phòng, rộng khoảng sáu thước, có sàn lát gỗ. Dù khác biệt lớn so với mơ ước của mình, nhưng trái tim Kiyomi vẫn đập rộn ràng với sự khởi đầu này. Niềm vui sướng khi ước mơ trở thành hiện thực, được rời khỏi nhà và sống tự lập, còn lớn hơn niềm vui được tới Tokyo. Căn phòng của cô ở nhà bố mẹ bây giờ phủ đầy bụi và đầy ắp những kỷ niệm. Những con gấu bông, những đĩa CD cũ kỹ, ảnh của ngôi sao mà ngày xưa cô yêu thích choán hết chỗ trên giá và ngăn kéo, trong tủ thì nhét đầy những bộ quần áo không mặc đến nữa nhưng cũng chẳng nỡ vứt đi. Vì còn vương vấn nên cô vẫn giữ lại những đồ vật ấy, và vì thế theo thời gian, chúng mang vẻ u ám hơn. Cô rời xa gia đình, đồng thời cũng rời xa căn phòng đã chở che cô suốt thời niên thiếu ấy. Miền đất mới và căn phòng mới này hy vọng sẽ đáp lại niềm mong ước của Kiyomi. Cô thở mạnh, nhìn khung cửa sổ. Chắc chắn đây không phải tòa nhà đẹp đẽ gì. Tòa nhà xây đã được sáu năm, có hai tầng với màu sơn quen thuộc mà đâu đâu cũng có thể bắt gặp. Cửa sổ quay ra hướng nam, từ đó có thể nhìn thấy cái cửa ra vào bằng thép rẻ tiền. Hai bên trái, phải là bếp và phòng tắm xây đối diện nhau, ở giữa là một phòng trống. Khoảng không gian trong phòng rất ít. Chỉ có cái tủ tường dán hoa văn vân gỗ ngăn giữa bếp và phòng chính. Phòng khách kiêm phòng ngủ nửa vời rộng khoảng ba mươi mét vuông, trần nhà thì thấp, chắc hẳn sẽ có nhiều người thấy bức bối với căn phòng này. Dù vậy, Kiyomi thấy thoải mái với cái sàn gỗ trắng, bức tường trắng vừa dán lại. Hơn tất thảy, niềm vui được độc chiếm không gian này làm cho mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ. Cô nghĩ: “Mình sẽ dùng căn phòng này tùy theo ý thích của mình.” Gió thổi làm cái rèm mới lắp chạm vào cánh tay cô. Cuộn tay trong tấm rèm, Kiyomi mỉm cười mãn nguyện. Cô chọn rèm màu xanh rêu in họa tiết hoa lá. Giường của cô là một chiếc giường sô pha loại dùng nệm, cô cũng đặt ti vi ở vị trí thuận tiện để có thể nằm hoặc ngồi trên giường và xem được thoải mái. Giữa sàn là tấm thảm lông dài, trên thảm đặt cái bàn tháp kiểu cổ điển. Cô không cần tủ quần áo, quần áo và những đồ khác cô nhét tạm trong tủ để chăn cũng được. Bồn rửa mặt có thiết kế trông có vẻ thô kệch, còn các đồ dùng nhà tắm thì làm bằng nhựa trong nhìn giống như những món đồ thiết kế, nhưng trông chúng cứ giả tạo thế nào đó. Đương nhiên là chỉ giống thôi, chứ chúng không phải là đồ thiết kế của hãng nào. Những vật dụng đó, cũng như rèm và bát đĩa, đều là những đồ dễ dàng mua được khi lượn vài vòng cửa hàng lớn hay cửa hàng một trăm yên. Dù nơi đây tập trung toàn đồ rẻ tiền, Kiyomi vẫn hài lòng ví von nó như một căn phòng sang trọng mà cô hay thấy trên tạp chí nhà ở. “Mấy đồ đạc nhỏ xếp ở quanh bếp, cái để cốc và bàn chải đánh răng để vào chỗ bồn rửa mặt nữa là xong.” Nhận ra mình đang nín thở ngẫm nghĩ, cô khẽ cười. Cô nghĩ cô chọn đồ đạc cho phòng còn nghiêm túc hơn cả chọn môn ở trường đại học: “Đáng lẽ mình nên chọn trường mỹ thuật và học ngành nội thất mới phải.” Kiyomi nhẹ nhàng đi đến bếp ở cách xa ban công. Pha cốc trà rồi ngồi xuống bàn, cô thấy mỏi nhừ cả người. Cuộc sống của cô dạo gần đây là thế, luôn phấn khích với môi trường mới, quay vòng vòng trong bộn bề của dọn dẹp, mua sắm, rồi chuẩn bị bài trước giờ học. Hồi cấp ba, cô từng ở trong câu lạc bộ quần vợt nên có thừa tự tin về thể lực, nhưng sự mệt mỏi hiện giờ lại khác hoàn toàn với khi vận động. Cô nghĩ rằng đây mới là môi trường Tokyo. Xung quanh thành phố có trường học, có căn hộ, nhưng khi cần mua đồ đạc hay sắm sửa gì đó, cô lại phải vào tận trung tâm và tới những cửa hàng lớn. Ở khu trung tâm, điều ngạc nhiên nhất là chỗ nào cũng thấy người. Cô luôn thấy thích thú với những cửa hàng mở tới tận khuya và những ánh đèn mờ ảo trong đêm ở nơi đây. Nơi cô sống trước đây cũng có cửa hàng tiện lợi và nó cũng mở cửa đến mười một giờ đêm, nhưng không thể nào so sánh nổi với ánh sáng của Tokyo. Mấy hôm đầu, khi ở trong căn phòng này vào buổi tối, Kiyomi ngạc nhiên tột độ khi thấy phía bầu trời thành phố tỏa sáng rực rỡ. Khi nhận ra góc đó là Shinjuku, tim cô thực sự cảm thấy bồn chồn và bất an như bị bóp nghẹt. Đương nhiên, chút yếu đuối đó nhanh chóng biến mất. Nhưng sự mệt mỏi thì không như vậy, ngay cả khi cô đã đặt mình xuống nghỉ ngơi, nó vẫn dai dẳng đeo bám cô, đó là điều mà cô chưa từng cảm thấy khi còn ở vùng quê đầy cây xanh của mình. Nhấp chút trà thảo mộc, Kiyomi cuộn tròn người trên chiếc thảm. Đúng vậy, cứ khi nghỉ ngơi, duỗi tay chân ra là sự mệt mỏi lại gọi cơn buồn ngủ tới. “Mình muốn có gối ôm với lớp vỏ thật mềm.” Cô nằm ngửa mặt, đặt hai tay trên bụng. Từ ô cửa sổ mở toang, làn gió xuân ấm áp thổi vào. Kiyomi áp tay lên gò má, thả lỏng người. Người thấm mệt như bông ngấm nước, chẳng mấy chốc cô đã chìm vào giấc ngủ. “Mình chỉ ngủ một chút thôi.” Cô nhắm mắt, định thưởng cho bản thân một giấc ngủ ngắn thì bên ngoài vang lên những âm thanh đứt quãng, vọng vào tai cô như gợi lên nỗi niềm luyến tiếc. Là tiếng trẻ con. Tiếng động cơ ô tô… Ngay lúc sau, cô nhận ra âm thanh mình nghe được đang ở rất gần, cô mở to mắt. Tối quá. Kiyomi lập tức quờ quạng tay và nhận ra, bóng tối ấy đơn thuần chỉ là do trời tối. Sững người, cô đưa mắt nhìn xung quanh. Bên ngoài, mặt trời sắp lặn. Cô hầu như không nhớ là mình đã ngủ hay chưa, có lẽ cô đã ngủ mê mệt ngay khi nhắm mắt lại. Kiyomi thở nhẹ, bỏ hai tay đặt trên ngực xuống. Hơi thở của cô như nghẹn lại. Chắc do đặt tay lên ngực mà cô gặp giấc mơ đáng ghét. Âm thanh mà cô nghe thấy không rõ là thật hay mơ, nhưng chắc chắn là của đàn ông. Anh ta nói gì nhỉ? Cô cố nhớ lại. Lời nói như trêu chọc, lại vừa như dọa dẫm cứ lởn vởn trong đầu cô như làn khói. Kiyomi hít thật mạnh, đến mức tạo thành cả nếp nhăn giữa đôi lông mày. Có mùi lạ. Đó là mùi cống rãnh cộng với mùi thối rữa, chúng như bám chặt lấy niêm mạc mũi của cô. Kiyomi nhăn mặt, ngồi dậy và nhìn xung quanh. Lấy lí do chưa ổn định cuộc sống nên cô hiếm khi nấu nướng, nhưng không phải là nhà cô không có rác sinh hoạt. Nhưng mùi hôi mà cô ngửi thấy lần này hoàn toàn khác với mùi đó. Nó giống với mùi hôi trong ống nước thải. “Không biết là mùi hôi từ đâu nhỉ?” Nhà cô không đến mức sạch như lau như li, nhưng cũng chưa có ai nói cô ăn ở luộm thuộm, bừa bãi. Vốn sợ chuột bọ nên cô cực nhạy cảm với đồ ăn đã dùng xong. Vì vậy, mùi này không phải từ trong phòng cô. “Chắc tại ống cấp nước của chung cư này bẩn quá.” Kiyomi bật đèn lên, kiểm tra đường ống ở bếp và bồn tắm. Không có mùi gì lạ. Lúc nhận ra điều đó thì cái mùi kỳ lạ đã biến mất rồi. Một lần nữa, cô nhíu mày, chạm tay vào vai mình. Không biết có phải do ngủ quên trên sàn không mà cô đau cứng hết cả vai. Hay do cái cửa sổ để mở không đóng? Vai cô lạnh ngắt. Bỗng nhiên, cô thấy tâm trạng mình u ám. Kiyomi xoay vai, trèo lên giường rồi đóng cửa sổ lại. Ánh đèn tỏa ra khắp căn phòng phản chiếu bóng cô trên kính cửa sổ. Nó cũng chiếu vào trong mắt cô, theo phản xạ, cô lùi người lại. Cô nghĩ chắc kính bị cong vì thi thoảng, hình ảnh phản chiếu trong cái cửa sổ này như bị nhòe thành hai. Hình như có một cái bóng của ai đó sau lưng đang chồng lên bóng của cô. Không hiểu sao dù đứng xa ra hay đổi góc độ thì cô vẫn thấy cái bóng đó. Nhưng lạ là lúc cô vừa xoay người thì cái bóng lại biến mất. Ban đầu, khi bên môi giới nhà đất dẫn cô đến đây xem phòng đã như vậy rồi. Lúc định xem quang cảnh bên ngoài, vừa chạm tay vào cửa sổ, Kiyomi đã giật mình quay lại. Trong khoảnh khắc, cô tưởng đấy là người môi giới đứng sau lưng mình. Dù là ảo giác đi chăng nữa, nhưng rõ ràng cô cảm nhận được hơi người ở phía sau. Nhưng ông già môi giới nhà đất, trông có vẻ thích thú, vẫn đang khoanh hai tay sau lưng đứng ở sảnh. “Cái kính cửa sổ này bị cong thì phải.” Cô khẽ thì thầm không để người môi giới biết mình đang dao động. “Cô thấy thế à? Ờ, có lẽ thế đấy. Ngoài ra, không có gì khác khiến cô bận tâm đúng không?” Người đàn ông không còn trong độ tuổi lao động nháy mắt, khẽ đung đưa người sang hai bên. Cười nhăn nhó đáp lại, cô kéo mạnh cái rèm. Sự lo lắng khi hoàng hôn buông xuống chắc là do nhớ nhà. Lên Tokyo hồi tháng Ba, tháng đầu tiên, Kiyomi vẫn chưa quen được người nào để có thể coi là bạn. Từ khi lên đây, những người nói chuyện với cô hầu như là người bên môi giới nhà đất hay nhân viên của cửa hàng nào đó. “Cũng chẳng còn cách nào khác.” Cô nghĩ đi học ở trường, rồi đi làm thêm thì sẽ nguôi đi phần nào nỗi nhớ đó. Nếu mà có bạn trai thì cô sẽ quên luôn cả buồn ấy chứ. “Kể cả đồ ăn, có khi anh ấy sẽ đến cửa hàng tiện lợi mua cho mình cũng nên.” Cô gật đầu một mình, vui vẻ ngồi xuống giường.   Mời các bạn đón đọc Căn Hộ Số 203 của tác giả Kamon Nanami & Nguyễn Phương Chi (dịch).
Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly
“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).
Người Kéo
Trong thành phố có một kẻ giết người hàng loạt… Với thủ pháp đặc trưng là đâm phập kéo vào họng nạn nhân. Thi thoảng hắn cũng gia giảm một chút công đoạn khác. Ví như có lần hạ sát một cô bé giỏi tiếng Anh, hắn đã tò mò rạch nát má cô ra để ngó vào trong xem cái lưỡi nói giỏi tiếng Anh trông thế nào. Nhưng cách thức cơ bản vẫn là: đâm kéo vào họng. Truyền thông bèn đặt cho hắn hỗn danh: Người kéo. Một ngày nọ, Người kéo lên đường đến địa điểm đã định để giết nạn nhân tiếp theo, thì lại chỉ nhặt được xác cô bé. Ai đó đã nẫng tay trên con mồi của hắn, và ngang ngược hơn là, bằng đúng thủ pháp hắn vẫn dùng: đâm kéo vào họng nạn nhân. Cảm thấy tự tôn bị thương tổn, Người kéo bắt đầu lên đường săn lùng kẻ sát nhân mạo danh mình. Từ đó đem đến một mô típ rất hiếm gặp trong trinh thám: Không phải cuộc đấu tranh giữa Thiện và Ác! Mà là màn đấu trí nghiệt ngã giữa Ác và Tà! *** Người kéo – Masayuki Shuno Một tác phẩm trinh thám xuất sắc, thực sự xuất sắc!!! Masayuki đã bằng tài năng của mình vẽ nên chân dung 1 kẻ giết người hàng loạt máu lạnh đa nhân cách mà ta có thể coi là điển hình – đẹp và lạnh lẽo một cách đáng sợ! Những thủ pháp của tác giả là quá cao tay, như: viết dưới ngôi thứ nhất đưa đến góc nhìn trực diện của chính kẻ sát nhân, cho đến việc ngắt đoạn có chủ ý thâm sâu khiến độc giả vừa như bị nhập vào kẻ giết ng, vừa như lạc vào mê cung và bị lừa cho đến phút cuối….tất cả đều bị Shuno lừa – từ độc giả cho đến những nhân vật trong truyện như cảnh sát, nạn nhân, phóng viên và cả chính kẻ giết ng….với 1 cách chọn nhân vật sáng tạo đến ko ngờ, Shuno khiến t vô cùng thích thú khi cho kẻ giết ng là 1 cô gái xinh đẹp, bị chứng đa nhân cách đặc biệt (có thể giao tiếp với nhân cách khác) cộng với hội chứng tự kỷ ám thị bản thân sâu sắc! Và với cách viết từ góc nhìn của hung thủ, tác giả khiến t bị mơ hồ lẫn lộn giữa đúng-sai, tôt-xấu….những kẻ ko giết ng, chắc gì đã tốt đẹp, và kẻ giết ng cũng có lí lẽ riêng của hắn. Đọc truyện này khiến t nhớ đến 1 ca khúc của Atmosphere đã nghe từ lâu, và giai điệu ca từ của bài hát cứ nhảy múa trong đầu: “Cuộc đời là những chuỗi dây xích Trôi dần qua ngày tháng Quay đều , những vòng quay nhàm chán Mỗi người là một mắt xích Những mắt xích móc nối vào nhau Bấu víu nhau Xiết chặt nhau Không ai có thể thoát ra Vì tất cả đều là: Mắt xích!” …..và công việc của ng kéo, là cắt xoẹt đi một vài mắt xích, để giải phóng những mắt xích, và giải phóng cả chuỗi dây xích cuộc đời…. Mọi vấn đề khúc mắc đc Shuno gỡ dần ở cuối truyện, và rồi ông kết thúc bằng 1 mắt xích hở….cái kết khiến t cực kỳ thích thú và thỏa mãn, và nó sẽ khiến t nhớ đến người kéo lâu nhất có thể! Tôi đã hào hứng đến độ tìm ngay những tác phẩm khác của Shuno, nhưng ko tìm thấy ☹ ông viết ít và Người Kéo là tác phẩm duy nhất đc dịch….thậm chí, ông đã mất và có lẽ t sẽ chẳng còn đc đọc những tác phẩm khác của ông đc nữa….(Người kéo đã đc dựng thành phim nhé, bạn nào hứng thú có thể tìm xem) Chấm điểm 9,5/10 Nguyễn Thành Tiến NGƯỜI KÉO | Masayuki Shuno Người dịch: Nguyễn Kim Hoàng Thể loại: Trinh thám Đọc trinh thám đến tận bây giờ rồi nhưng vẫn còn bị đánh lừa bởi “Người kéo” thì rốt cuộc quyển sách này hay hay không hay? Người kéoNGƯỜI KÉO Với mình, mình xếp nó vào bên “hay”. Quả thực là mình đã rất chán ngán với những tiểu thuyết trinh thám hiện đại hay cố tình kéo dài dung lượng của nó bằng những trường đoạn miêu tả quang cảnh, quần áo hay “làm đầy” hoàn cảnh cá nhân hoặc triết lý sống của (một số nhiều) những nhân vật trong đó. Vì thế nên vẫn có hứng thú hơn với những quyển sách vừa đủ, vừa tay như “Người kéo”. Vụ án của “Người kéo” không mới khi lấy chủ đề sát nhân hàng loạt làm mạch nguồn của câu chuyện. Mỗi nạn nhân đều bị hung thủ siết cổ đến chết trước khi bị cắm ngập cây kéo vào cổ họng. Truyền thông dựa vào đặc điểm chung ấy đặt tên cho hắn là “Người kéo”. Đến nạn nhân thứ ba, hung thủ chưa kịp ra tay đã bị nẫng tay trên: nạn nhân đã bị sát hại với cùng một cách thức như chính hắn đã làm với hai nạn nhân trước. Kể từ đây, Người kéo lao vào hành trình truy tìm hung thủ thật sự của vụ án thứ ba này. Một cuộc chiến giữa Ác và Ác. Masayuki Shuno dường như còn muốn nói lên nhiều vấn đề khác hơn là bản thân tính trinh thám của quyển sách. Nổi cộm lên nhất có lẽ là việc truyền thông đã có tác động lớn thế nào đến một vụ án nhận được sự quan tâm sâu sắc từ dư luận xã hội. Truyền thông báo chí không chỉ bóp méo đi, phóng đại thêm sự thật, làm chệch hướng điều tra, mà còn bị lợi dụng trở thành công cụ đắc lực cho kẻ thủ ác. Tác giả cũng ngầm lồng ghép những vấn đề nội tại phát sinh từ bên trong một con người, lằn ranh mỏng manh giữa thiện và ác hay mặt nạ giả tạo hoàn hảo của họ trong xã hội hiện đại. Mình đã phải giở lại một số phân đoạn để kiểm tra sau khi đọc xong, và gật gù nhận ra lý do mà người dịch (hoặc biên tập) lựa chọn những từ ngữ ấy. Bởi sự khác biệt về ngôn ngữ là một trong những thứ khiến điều tác giả “giấu đi” trở nên bất ngờ hơn ở đoạn kết. Sự lựa chọn từ ngữ như vậy ở bản dịch mình nghĩ hoàn toàn là có chủ đích, dù lúc đọc cũng cảm thấy lạ lạ. Mình không dám đảm bảo người khác sẽ có cùng cảm nhận, nhưng “Người kéo” đã gia vị đầy đủ những mong đợi của mình về một quyển trinh thám tốt: một vụ án, một câu chuyện, một suy luận, một bầu không khí và trên hết là một bất ngờ không thể đoán trước. “Người kéo” có nhiều hơn những tiêu chuẩn “một” ấy, và mặc dù với dung lượng khiêm tốn, nó vẫn gợi lên cho ta những suy nghĩ, những phán xét riêng, đặc biệt là ở cái kết. P.S: Ngoài lề, đây là cuốn trinh thám đầu tiên mình đọc lại sau khoảng nửa năm bỏ đọc trinh thám và IPM vẫn không làm mình thất vọng. Chắc là gu chọn sách trinh thám của IPM hợp với mình. Đã mua Ác ý của IPM và rất hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Quốc Huỳnh Người Kéo - Masayuki ShunoNGƯỜI KÉO – MASAYUKI SHUNO Người Kéo – Masayuki Shuno Profiling của Người kéo: “Tầm tuổi 20-35. Có khả năng béo phì. Độc thân, sống một mình trong thành phố… Chỉ số thông minh rất cao… Thuộc dạng tự luyến, mắc chứng tâm thần phân liệt, gặp chướng ngại về nhân cách phân lập. Khả năng cao hay ảo giác, ảo thanh và mắc chứng hoang tưởng…” Con mồi của Người kéo bị sát hại. Kẻ sát hại dùng chính thủ pháp của Người Kéo. Người Kéo quyết định tìm ra hung thủ thực sự. Ngay từ đầu câu chuyện, người đọc đã được giới thiệu Người kéo, nơi công tác cũng như cách thức lựa chọn, sát hại con mồi của hắn. Tuy nhiên, câu chuyện đã chuyển sang giai đoạn mới khi con mồi của Người Kéo bị sát hại bằng chính thủ pháp của Người Kéo. Cả câu chuyện là cuộc truy đuổi giữa Người Kéo với đội điều tra. Góc nhìn của Người Kéo và đội điều tra liên tục thay đổi trong suốt câu chuyện, giúp người đọc nắm được hành động cũng như suy nghĩ của 2 bên. Vậy ai là Người Kéo? Ai là hung thủ thực sự? Chỉ đến những chương cuối cùng, mọi mắt xích của vụ án mới được hé lộ. Điểm: 8/10 Câu chuyện diễn ra khá chậm, chỉ gồm những đoạn hội thoại giữa nhân vật và những người liên quan tới nạn nhân. Những bạn thích đọc trinh thám hành động sẽ thấy khá nản với câu chuyện. IPM biên tập bộ này khá ẩu, còn một số lỗi đọc thấy khó chịu, hơi thất vọng vì những bộ trinh thám nhật trước của IPM biên tập tốt hơn nhiều. P/S: Bìa chả liên quan tới nội dung truyện :v *** Nạn nhân thứ ba của Người kéo sống ở khu Takaban. Tôi hầu như chưa nhìn thấy hay nghe đến cái tên Takaban này bao giờ. Lúc mới nghe, tôi cứ ngơ ngác không biết khu phố ấy nằm chỗ nào trong quận, ga gần nhất là ở đâu và muốn đến đó thì nên bắt chuyến tàu nào. Thứ Sáu, ngày 10 tháng Mười, tôi quyết định nghỉ làm một hôm để đến Takaban xem thử. Tôi vẫn chưa biết Tarumiya Yukiko mặt ngang mũi dọc ra làm sao, song tôi tự nhủ rằng hôm nay chỉ cần xác nhận nơi ở của cô bé là được. Bữa sáng của tôi gồm một miếng bánh mì nướng cùng trứng ốp la lòng đào, bông cải luộc còn thừa từ tối qua và một tách cà phê nhiều sữa. Tôi vừa ăn vừa lấy tập bản đồ bỏ túi yêu thích vẽ 23 quận Tokyo ra để lên chiếc bàn ăn tròn, giở xem quận Meguro. Khu Takaban tọa lạc gần trung tâm quận. Nếu bắt tàu chạy theo hướng Nam-Bắc, cắt ngang qua hai con đường thì sẽ đến ga gần đó nhất là ga Đại học Gakugei. Thế tức là từ căn hộ của mình, tôi cần bắt tàu, đổi tuyến để xuống được ga Đại học Gakugei. Quãng đường khá xa nên tốn nhiều thời gian đây. Dám chừng sẽ ngốn của tôi nguyên ngày. Tôi nhặt chiếc túi đeo vai vứt dưới sàn lúc về nhà tối qua, lục túi lấy một tờ giấy in ở chỗ làm rồi giở ra, đặt cạnh tập bản đồ. Họ tên: Tarumiya Yukiko Địa chỉ: Căn 503 Desert Himonya, số 4-13 khu Takaban, quận Meguro Số điện thoại: xxx Tôi so địa chỉ trên tờ giấy với bản đồ. Khối phố 4 Takaban có một mặt tiền ở đường Meguro. Tức là bắt tàu đến chỗ đổi tuyến thì dừng, chặng còn lại đi xe buýt cũng được. Như thế có gần hơn không nhỉ? Tôi vừa nhấm nháp miếng bánh mì nướng phết đầy bơ vừa nhìn xoáy vào bản đồ. Loại bỏ túi này cầm theo thì tiện, nhưng các chi tiết bị in bé đến nhức mắt, tôi không thể ước lượng được khoảng cách từ ga Đại học Gakugei đến đường Meguro chính xác là bao xa. Sau một hồi nghĩ ngợi, tôi quyết định sẽ thẳng tiến đến ga Đại học Gakugei chỉ bằng phương tiện tàu điện, vì đổi sang xe buýt thì dù quãng đường có ngắn hơn đi nữa tôi cũng không biết mình sẽ tiết kiệm được bao nhiêu thời gian. Ăn xong, tôi đem đĩa tách bỏ vào bồn rửa, thay áo len, quần jeans, đeo đồng hồ. 7 giờ sáng. Giờ này đúng là có hơi sớm thật, nhưng lần đầu tiên đi đến chỗ lạ thì cũng nên chừa thời gian dư dả ra một chút. Tôi xỏ giày thể thao rồi rời khỏi nhà. Hôm nay chỉ đi thị sát nên cũng không cần mang túi theo làm gì. Tôi khóa trái cửa lại rồi bước xuống bậc thang tối hù của chung cư. Căn hộ tôi đang trọ thực chất chỉ là một cái hộp sắt chứ chẳng phải căn hộ một phòng ngủ như công ty bất động sản đã từng một mực nói với tôi. Tôi chẳng biết nó được xây từ thời nào, nhân viên bất động sản cũng thận trọng tránh nhắc đến chủ đề ấy. Nói tóm lại, chung cư trông cũng chẳng khác gì các tòa nhà được xây từ hồi xửa xưa là mấy. Tường bê tông thì ngả màu vàng vọt cáu bẩn, đèn chiếu sáng trên trần nhà thì tầng có tầng không. Chủ chung cư không chịu thay đèn huỳnh quang, đến cả hệ thống điện cũng không được ai bảo trì. Sống ở đây được cái chẳng bao giờ bị hàng xóm soi mói, chung cư cũng ở gần nhà ga. Sau khi người chủ cũ rời đi, tôi đã quyết định dọn vào chỗ này phần lớn cũng vì đi lại tiện lợi. Qua cửa chung cư, tôi bước ra đường, bấm nút báo hiệu ở cột đèn để xin sang đường. Ga tàu điện ngầm đã ở ngay trước mặt. Dòng quảng cáo “đến nhà ga chỉ mất chừng một phút” của công ty bất động sản xem chừng không phải phóng đại hay lừa đảo, ngược lại, tôi còn thấy ước tính ấy khiêm tốn hơn thực tế. Nếu chạy hết tốc lực chắc chẳng mất đến một phút đâu. Tàu điện chạy qua khu này theo lộ trình đường sắt trên cao. Dù cũng bình thường thôi, nhưng gọi là tàu điện ngầm rồi lại leo lên mặt đất thì cũng hơi ngạc nhiên. Đoàn tàu hướng về trung tâm thành phố, trong toa đông nghẹt người đi làm và đi học. Ánh mắt tôi tự nhiên dạt đến chỗ mấy nữ sinh trung học. Hồi mới tới Tokyo, lúc nào tôi cũng nhìn thấy những con nhóc tóc nhuộm đỏ hoe, lông mày thì cạo sạch, đuôi mắt kẻ sắc lẹm, vớ rộng thùng thình, cổ chân nhuộm màu cam nhạt như màu lông đười ươi, trông chẳng khác gì bị bệnh da liễu. Vả lại, trào lưu bây giờ của lũ trẻ hình như là nhuộm tóc thành bạc phếch thì phải. Mặc đồng phục thủy thủ rồi nhuộm tóc bạc như y bác sĩ nhìn cứ phản cảm thế nào, như kiểu cosplay mấy mụ già hành nghề vũ nữ thoát y ấy, nhưng người trong cuộc hẳn chỉ đang nghĩ rằng mình trông hợp thời lắm thôi. Đứa nào cũng ưỡn ngực đầy tự hào, khoe khoang với những hành khách khác trên toa. Nhưng khi đến trường thì chúng nó phải làm sao? Trên đời không có trường cấp ba nào để yên cho đám học sinh nghênh ngang đem quả đầu bạc phếch ấy vào học đâu nhỉ? Hay mấy đứa nó lén nhuộm tóc trong nhà vệ sinh nhà ga bằng thuốc nhuộm lấy trộm của mẹ? Tôi ghì lấy dây nắm trên toa tàu, miên man nghĩ về Tarumiya Yukiko, cô bé mà tôi vẫn chưa một lần gặp mặt. Tóc em liệu có bị nhuộm bạc phếch không? Chắc là không đâu, quả đầu giả tạo ấy không hợp với cô bé chút nào. Nhưng lỡ tôi vỡ mộng khi nhìn thấy cô bé thì sao? Mong rằng cô bé sở hữu một mái tóc óng ả thướt tha. Sau một quãng đường dài dưới lòng đất thì đến chỗ phải đổi tuyến. Tôi ngồi xuống băng ghế ở nhà ga, đợi tàu đổi. Theo thói quen, tôi lia mắt đọc hết toàn bộ quảng cáo của các tờ tạp chí dán trên tường nhà ga. Mấy dòng tít của những tờ tuần san và nguyệt san truyền tải các loại thông tin rất đa dạng. Nội chiến nổ ra tại một nước cộng hòa ở châu Phi, giá gạo tăng cao do mùa hè năm nay nhiệt độ giảm mạnh, tin đồn một nghệ sĩ sân khấu đã sáu mươi tuổi có quan hệ tình dục với con gái nuôi, chất liệu giả lông thú lộng lẫy cho mùa đông năm nay, trào lưu nhuộm tóc bạc của giới trẻ hiện nay gọi là “bờm trắng”, vân vân… Những dòng tít này có lẽ sẽ hữu ích với ai đấy, nhưng đối với tôi thì chúng chỉ là thông tin vô bổ. Trước hết, tôi đâu cần biết những vụ việc đang xảy ra ở đất nước châu Phi mà ngay cả tên tôi còn không đọc được. So với cơm gạo thì tôi thích ăn bánh mì hơn. Còn nữa, dù là quan hệ tình dục với con gái nuôi hay chó cưng hay laptop đi nữa, chỉ cần ông nghệ sĩ kia thích là đủ, bới móc làm gì? Tôi không mặc trang phục giả lông thú. Hơn nữa, tôi chẳng có tí hứng thú nào với đám con gái theo trào lưu “bờm trắng”. Thứ gây tò mò nhất đối với tôi lúc này chỉ có Người kéo. Hiện giờ Người kéo chỉ là thần tượng của đám báo lá cải và hiếm khi được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông chính thống, như một đứa con cưng giờ đã thành con ghẻ. Vụ án gần đây nhất của Người kéo xảy ra đã hơn nửa năm, thông tin báo chí cũng vì thế mà trở nên lộn xộn. Trong quãng thời gian Người kéo ẩn mình cũng có nhiều vụ án, tai nạn và scandal khác gây chấn động dư luận hơn. Tôi chẳng tiếc nuối gì việc Người kéo bị sụt giảm danh tiếng. Ngược lại, tôi còn cảm kích vì truyền thông đã không còn hứng thú với tên sát nhân này nữa. Từ vụ Konishi Mina bị sát hại ở tỉnh Saitama đến vụ Matsubara Masayo bị sát hại trên bờ vịnh quận Edogawa, hễ có người bị hại là cánh truyền thông sẽ bâu vào xâu xé ngay. Vậy nên tốt nhất là đừng ai nhắc đến Người kéo nữa. Nếu được, tôi chỉ mong tên tuổi Người kéo rơi vào quên lãng luôn. Một chiếc tàu điện màu cam dừng lại ở ga. Tàu đổi đây rồi. Chắc là do tàu di chuyển từ trung tâm ra ngoại ô nên khoang vắng vẻ đến nỗi một người có thể thoải mái ngồi phần ghế dành cho ba người. Tàu ra khỏi đường hầm âm u của nhà ga để chạy lên mặt đất. Từ đường ray trên cao, tàu chạy xuống lòng đất, rồi lại chạy lên đường ray trên cao khác. Như một con chuột sợ bò lên chỗ sáng, tôi chỉ dám di chuyển trong lòng đất của khu trung tâm để đi từ Bắc đến Nam. Từ cửa sổ nhìn ra, trời đã bắt đầu âm u vần vũ. Dạo gần đây trời cứ mưa dầm dề, chẳng mấy khi tạnh. Sắp tới còn là ngày hội Sức khỏe toàn dân, phen này hội thao phải hủy hết rồi. Hội thao của trường cấp ba Hazakura nơi Tarumiya Yukiko theo học có sao không nhỉ? Cuối cùng tàu cũng đến ga Đại học Gakugei, tôi tính nhẩm rồi trả phí đi tàu cho quãng đường ban nãy ở máy tự động, đoạn bước ra ngoài. Cắt ngang ga tàu nằm ở tuyến đường sắt trên cao là một khu phố mua bán nhỏ. Tiệm sách, tiệm ăn, hàng tạp hóa, tiệm bán đồ điện khí, quầy bán mì soba. Toàn là những hàng quán quen thuộc thường gặp ở các bến tàu tư nhân. Loa phóng thanh mắc trên dàn dây điện bọc nhựa an toàn đang phát nhạc nho nhỏ. Tôi móc bản đồ từ túi quần sau, kiểm tra lại một lần nữa rồi đi về phía đường Meguro. Theo bản đồ thì khu này đã là Takaban của quận Meguro rồi. Hẳn là tôi đang ở gần căn hộ của Tarumiya Yukiko lắm đây. Tôi tiếp tục men theo lối hẹp lát gạch sau khi đi hết con đường nằm gọn dưới mái vòm của khu mua bán. Thấp thoáng bên phải có một hàng rào bằng kẽm, đối diện là một tòa nhà lớn nhưng không cao lắm. Trên tầng thượng có một tháp tín hiệu sơn màu đỏ tươi trông đến là bắt mắt. NTT chi nhánh Meguro. Không hiểu sao, hình như tôi đi nhầm đường rồi thì phải. Qua khỏi NTT thì ra một con đường lớn. Đường Meguro đây rồi. Biển báo màu xanh bên vệ đường ghi bằng cả chữ Nhật và chữ La tinh. Tôi dừng ở ngã tư có cột đèn giao thông, giở bản đồ ra xem lại, Tôi so hình vẽ trên bản đồ với khung cảnh thực tế, xác định vị trí tương quan giữa NTT và bưu điện. Muốn tìm chung cư Desert Himonya thì có lẽ từ đây chỉ cần đi hướng bên phải. Tôi cất bản đồ vào túi quần rồi tiếp tục bước đi. Lúc trông thấy tấm biển khu dân cư bằng nhựa màu xanh biển gắn trên cột điện đề “Takaban, khu phố 4”, tôi lập tức rẽ vào con đường nhỏ ngay đấy. Từ đây chỉ thấy được một mặt chung cư. Đành phải mò mẫm trong khu phố phức tạp này vậy. Đến là khổ với hệ thống chung cư nhiều vô kể của Tokyo. Sau chừng hai mươi phút lòng vòng, rốt cuộc tôi cũng phát hiện ra một chung cư màu đỏ gạch. Chẳng biết tòa nhà xây theo phong cách gì, nhưng trông tổng thể như một sân khấu múa rối khổng lồ làm bằng sa thạch đang đổ hẳn sang bên. Bức tường tiếp giáp mặt đường bị đục lỗ chỗ bằng các ống nhựa ruột gà, những ô chữ nhật lớn thụt vào có lẽ là ban công, còn những ô chữ nhật bé hơn thì có vẻ là cửa sổ. Cửa sổ nhà tắm. Bên trên cửa ra bằng kính có khắc dòng “Desert Himonya” bằng kí tự La tinh theo lối viết thư pháp. Hàng rào kẽm nằm ven con đường ban nãy có gắn biển đề “Nơi để vật dụng dành riêng cho chung cư Desert Himonya”. Suy cho cùng chỉ là bãi đổ rác thôi mà, có cần cầu kì thế không? Sau khi bước qua cánh cửa tự động, chân tôi lập tức bước lên khoảng sân trước lát gạch màu pastel. Gần kế bên cánh cửa tự động choán cả mặt tiền tòa nhà là hộp máy điều khiển khóa tự động có hai cạnh cong cong. Hệ thống này không cho phép người lạ vào nếu như sau khi bấm số căn hộ, chủ nhà không lên tiếng cho phép qua chiếc loa gắn bên trong máy. Nói cách khác, hộp máy kim loại trơn nhẵn như búp bê chạm bằng gỗ này chính là tên lính canh không ngơi nghỉ của các chủ hộ. Hôm nay cũng chưa cần vào chung cư. Tôi đến gần dãy hòm thư gắn âm tường để kiểm tra hòm thư đề số 503. 503 Tarumiya Kazuhiro Bố của Yukiko tên là Kazuhiro thì phải. Hài lòng rồi, tôi lấy tay xoa cái đầu trơn nhẵn của tên lính canh kim loại và rời khỏi Desert Himonya. Tôi quay ra đường Meguro, vừa đi vừa ghi nhớ đường đi nước bước đến khu này. Tôi định bụng chiều tan làm sẽ bắt thử xe buýt về chỗ đổi tàu xem sao. Tôi cần xin nghỉ thêm một ngày nữa để đến Desert Himonya, theo dõi xem Yukiko mặt ngang mũi dọc ra sao. 9 giờ sáng hôm sau, tôi đến chỗ làm. Tôi đang làm thời vụ ở Nhà xuất bản Himurokawa, đi thẳng từ nhà trọ đến không cần đổi phương tiện di chuyển. Đấy là một trong những lý do khiến tôi tăng hợp đồng thuê nhà thành dài hạn và làm việc ở đó những hơn hai năm. Đến ga, tôi đi lên mặt phố, bước vào một con hẻm nhỏ nằm ở góc đường lớn, thế là tòa nhà năm tầng của Nhà xuất bản Himurokawa đã hiện ra trước mắt. Nhưng không phải tất cả đều là của họ. Hiniurokawa chỉ thuê tầng ba và tầng bốn, mang tiếng là nhà xuất bản nhưng cả thảy chỉ có hơn chục nhân viên. Tôi bước vào thang máy rồi bấm nút lên tầng bốn. Bảng nút tầng của cái thang máy này có dạng hình tròn nhô ra ngoài, âu cũng hiếm thấy vào thời nay. Nhà xuất bản cơ cấu rõ ràng cho hai tầng. Tầng ba là phòng Kinh doanh, tầng bốn là phòng Biên tập. Về danh nghĩa rất rạch ròi, nhưng thực tế thì các phòng ban nội bộ không thể tuân theo lằn ranh đó được. Cứ vào giữa tháng, tức là đợt bận rộn nhất của nhà xuất bản, nhóm ba nhân viên thời vụ chúng tôi lại phải chạy đôn chạy đáo giữa hai bộ phận, đến nỗi ranh giới giữa hai bên coi như xóa nhòa. Công việc của tôi hiện ở tình trạng thế này. Sau khi lấy hơn năm mươi bản photo ở tầng bốn thì xuống tầng ba để phụ giúp phân loại, đóng thùng các bộ giáo trình hoặc gửi chúng đi, rồi quay lại tầng bốn, giả vờ hiệu đính bản thảo bằng bút chì đỏ, không thì cũng đeo đôi găng nhựa mỏng dính để xếp mấy tấm phim dương bản vào trong phong bì.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6