Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Phút Nhìn Lại Mình - Spencer Johnson
Sách Nói Phút Nhìn Lại Mình   “Trong cuộc sống có những lúc cần hướng vềphía trước, suy nghĩ và chuyển động nhanh,có những lúc cần tĩnh lặng, nhìn lại và điều chỉnh. Mọi thành công trong công việc và hạnh phúctrong cuộc sống đều bắt đầu từ nguồn sáng nội tâm.” -- Khuyết danh Phút Nhìn Lại Mình của tác giả Spencer Johnson là một câu chuyện thực tế, hữu ích và sâu sắc về cách nhìn lại, tự điều chỉnh mình để vượt qua những khó khăn, trở ngại và đạt được thành công và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống. Giữa dòng đời hối hả, bộn bề, một chàng trai – nhân vật chính của câu chuyện – bên cạnh những vất vả, tổn thương tinh thần - đã có những lúc tưởng chừng đuối sức vì công việc và áp lực cuộc sống. Chính anh đã cảm nhận mình còn thiếu một điều gì đó rất quan trọng và bắt đầu cuộc tìm kiếm sự tĩnh lặng, phút nhìn lại mình, để thanh thản, để trở về với chính mình, để đạt được thành công trong công việc và đặc biệt là tìm được hạnh phúc với người thân yêu, bạn bè, gia đình, với mọi người và quan trọng hơn hết – là hạnh phúc với chính mình. Chàng trai khám phá ra con đường dẫn đến hạnh phúc, thành công – không ở đâu xa hay khó nắm bắt được như trước đây anh từng nghĩ – mà  đơn giản là chỉ với một khoảng thời gian rất ngắn – một phút nhìn lại mình, dành riêng cho mình. “Đó là điều quan trọng của cuộc sống mà đôi khi bạn đã quên đi hay vô tình không nhận ra…” *** Rời mái trường bước vào cuộc sống,một chàng trai,sau những khó khăn,thử thách dần trưởng thành với những mục đích đã đạt được.Anh làm việc không mệt mỏi và điều có ý nghĩa là anh đã tìm được niềm vui trong công việc.Công việc thực sự có một sức hút với anh.Cũng nhờ thế, anh đã đạt được không ít thành quả khiến cho những nguời xung quanh rất thán phục Nhưng đến một ngày, anh cảm thấy quá căng thẳng,bởi hầu như công việc ở công ty anh cứ liên tục tiếp diễn,không có điểm dừng.Bất kì vấn đề nào anh cũng muốn quan tâm đến bằng tất cả nhiệt huyết,song có những điều xảy ra không theo ý muốn của anh.Những hiểu lầm dẫn đến bất hoà với đồng nghiệp,những lần xung đột quan điểm với người yêu-khiến tình cảm rạn nứt dẫn đến cuộc chia tay mới đây…đã khiến anh thực sự mất phương hướng.Tình yêu đổ vỡ-anh mất đi nguồn động viên lớn nhất của mình. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến anh,trong suy nghĩ riêng cũng như trong công việc. Chàng trai không thể lí giải được điều gì đang xảy đến với mình.Nhiều đêm không ngủ,mọi nghĩ suy trăn trở trong anh chỉ xoay quanh câu hỏi:”Tại sao?”.Tại sao có những sự việc anh chắc chắn nó sẽ diễn biến như thế,nhưng cuối cùng không thể làm anh hài lòng?.Sự tự tin trong anh không mất đi,nhưng anh không tìm ra đâu là hướng đi đúng.Anh cảm thấy hình như mình còn thiếu một điều gì đó-một điều rất quan trọng. Những khi ngồi lại một mình,trong anh lại xuất hiện những suy nghĩ mâu thuẫn.Anh chợt thấy mình là một người xa lạ-một người mà chính anh cũng không thích-nhưng cái tôi của anh đã ngăn cản không cho anh nhìn rõ và thừa nhận điều đó.Những mâu thuẫn nội tại cùng với các sự cố không thể khắc phục được trong cuộc sống đã khiến anh trở nên trầm lặng hẳn.Tuy nhiên, trong thâm tâm,anh biết đó chỉ là một sự “tự vệ” tạm thời,chứ không phải là bản chất thật luôn hướng ngoại,tích cực của mình. Nhưng dần dần,anh nhận ra vấn đề đã trở nên nghiêm trọng hơn anh tưởng:sự sáng tạo và năng động vốn có trong anh đã giảm đi rất nhiều.Từ lúc nào không hay,anh đã mắc phải chứng trầm cảm-hậu quả của những đêm dài không ngủ,trăn trở nghĩ suy.Anh không biết phải khắc phục,tự điều chỉnh như thế nào hoặc phải bắt đầu lại từ đâu?. “Mình đang thật sự cần điều gì đây?-Anh trăn trở-Liệu mình có đòi hỏi quá nhiều không,khi vừa muốn được thành công,lại cũng vừa muốn tìm kiếm sự bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn?Không biết có ai đó cùng lúc đạt được cả hai điều này không?Nếu có thì người đó quả thật may mắn vì có được một cuộc sống trọn vẹn như vậy!”. “Mình phải sớm thoát khỏi tình trạng này –Anh tự nhủ-Nếu kéo dài,hậu quả sẽ khó lường trước.Phải có ai đó thật từng trải mới có cách lí giải những mâu thuẫn trong cuộc sống-như những gì mình đang gặp-mới có thể giúp được mình”.Anh bỗng thấy phấn chấn khi tiếp tục theo đuổi dòng suy nghĩ: “Liệu có ai đó làm được như vậy không?Và làm sao biết được người đó ở đâu?Mà nếu gặp được thì không biết họ có sẵn lòng chia sẻ những bí quyết quý báu đó với một người lạ như mình không?” Bất chợt anh nhớ đến một người mà trong một lần tình cờ đã giúp một người bạn của anh giải quyết một tình huông khó xử khiến anh nhớ mãi.Về sau,anh mới biết được ông là một bác sĩ,hình như là bác sĩ tâm lí.Thỉnh thoảng,anh cũng có trò chuyện cùng ông.Sự hiểu biết,vốn sống phong phú và phong thái trẻ trung của ông khiến anh thầm cảm phục.Ngoài công việc chính, ông còn giảng dạy ở nhiều nơi và đôi khi cũng dành thời gian tham gia các trận đá bóng với sinh viên của mình.Anh từng nghe mọi người nói rất nhiều về ông. Ông trầm tĩnh,sâu sắc,hiểu biết nhiều về cuộc sống và có óc hài hước. Đó thật sự là một người đáng tin cậy.Thế nên, ông luôn luôn được mọi người quý trọng.Dường như, ông đang nắm giữ trong tay mọi điều tuyệt vời nhất của cuộc sống:có những mối quan hệ tốt đẹp,một gia đình hạnh phúc và một công việc ý nghĩa. ... Mời các bạn đón đọc Phút Nhìn Lại Mình của tác giả Spencer Johnson.
Những Bí Quyết Trong Giao Tiếp - Larry King
Sách Nói Những Bí Quyết trong Giao Tiếp   HENRY KISSINGER "Ngôn ngữ truyền đạt của Larry King quả thật là không ai sánh bằng. Nguyên tắc cốt yếu của ông ấy là biết lắng nghe, biết chia sẻ và không bao giờ đánh mất sự hài hước. Đây là một bài học quý cho tất cả chúng ta". TOMMY LASORDA "Quả thật cuốn sách này thật thú vị với những lời nhận xét xác đáng và bổ ích". GEORGE BURNS "Tôi bị choáng trước cuốn sách mới của Larry. Tôi phải thốt lên rằng tôi rất thích nó. Và dĩ nhiên, Larry đâu có ép tôi phải nói điều này!". DAN RATHER "Cuốn sách đã cho tôi những lời khuyên thực tiễn nhất và thông minh nhất. Xin cảm ơn Larry King, nhà hùng biện đại tài". LARRY KING *** 45 NĂM GẮN BÓ VỚI NGHỀ PHÁT THANH VIÊN Năm 2003 là năm thứ 46 của Larry King trong nghề phát thanh viên. Ông được nhận danh hiệu: "Người dẫn chương trình ấn tượng nhất" nước Mỹ và được tạp chí TIME bình chọn là "Chuyên gia micro" số một. Biệt tài của Larry Kinh là cực kỳ khéo léo trong việc khai thác thông tin từ người đối thoại và dẫn dắt vấn đề. Phong cách của ông lịch thiệp và vô tư nhưng lại đưa ra được những câu hỏi bất ngờ, hấp dẫn nhất trong cuộc nói chuyện. Larry King tên thật là Lawrence Harvey Ziegler, sinh ngày 19-11-1933 tại Brooklyn, New York trong một gia đình người Nga di cư với bố và mẹ là Eddie và Jennie. Trước khi xuất hiện trước khán giả quốc tế, King là một phát thanh viên được yêu thích ở Miami, khi phụ trách những chương trình phỏng vấn trên làn sóng phát thanh WIOD-Radio và trên kênh truyền hình WTVJ-TV. Hàng triệu thính giả của Mutual Radio đã quen thuộc với giọng nói của King qua chương trình "The Larry King Show" từ năm 1978-1994. Larry King thực sự nổi tiếng khi đảm nhiệm cương vị người phụ trách chương trình trò chuyện "Larry King Live" trên đài CNN. Ra đời tháng 6-1985, với nội dung là những cuộc phỏng vấn các nhân vật nổi tiếng, các cuộc thảo luận chính trị-xã hội, đây là một trong những chương trình truyền hình được đánh giá cao nhất đến nay. Chương trình được truyền hình trực tiếp vào 21 giờ tối, có sự tham gia của các khán giả trên thế giới qua mạng điện thoại. Tháng 6-1994, "Larry King Live" trở thành chương trình đầu tiên được truyền hình trực tiếp trên CNN và phát thanh trên làn sóng radio Mutual/Westwood. King đã thực hiện trên 40.000 cuộc phỏng vấn, được gặp gỡ và đối thoại với nhiều nhân vật tên tuổi, trong đó có các tổng thống Mỹ kể từ thời Richard Nixon. Năm 1993, cuộc thảo luận giữa Al Gore và Ross Perot trên chương trình của King đã lập kỷ lục chưa từng có trong lịch sử CNN: trên 16,3 triệu khán giả theo dõi, cao hơn cả số lượng khán giả xem phóng sự đầu tiên về chiến tranh vùng Vịnh. Tính đến nay "Larry King Live" là chương trình có tuổi thọ lâu nhất của CNN và thu hút đông đảo khán giả nhất. Năm 2000, King thực hiện thành công chương trình 37 ngày liên tục theo sát cuộc tuyển cử ở Florida, phỏng vấn 384 người. Những khách mời như là Geoge W. Bush, Laura Bush, Tipper Gore... Ngoài ra còn có ứng viên Đảng Cộng Hòa Dick Cheney và ứng viên Đảng Dân Chủ Joe Lieberman. Năm 2001, sau sự kiện khủng bố ngày 11/9, King đã phỏng vấn hơn 700 vị khách mời, bao gồm cả những nhà lãnh đạo thế giới và các chính trị gia tên tuổi. Chương trình "Larry King Live" luôn luôn hấp dẫn với danh sách khách mời sáng giá, phong phú và hấp dẫn: Yasser Arafat, Tom Cruise, Tony Blair, Marlon Brando, Jim Carrey, Bette Davis, Sammy Davis Jr., Mikhail Gorbachev, Tom Hanks, Bob Hope, Michael Jordan, Madonna, Paul McCartney, Al Pacino, Prince, Diana Ross, Pete Rose, Barbara Streisand, Sting, Elizabeth Taylor, Margaret Thatcher và Oprah Winfrey (người phụ nữ dẫn chương trình hay nhất nước Mỹ, nữ tỷ phú da màu đầu tiên-thống kê đầu năm 2003)... Được ví là "Muhammad Ali của những cuộc phỏng vấn", Larry King có một sự nghiệp lẫy lừng với vô số giải thưởng lớn: giải phóng viên ưu tú "Allen H. Neuharth", giải "Emmy", mười giải "Cabble ACE" cho người phỏng vấn giỏi nhất và chương trình truyền hình hay nhất. Năm 1993, King trở thành "Ông chủ chương trình trò chuyện của năm". Năm 1994, ông nhận giải "Scopus" do tổ chức American Friends của trường đại học Hebrew trao tặng. Năm 1996, Viện Hàn Lâm Hoa Kỳ trao tặng King giải thưởng"Golden Plate" cho những cống hiến của ông trong ngành công nghiệp truyền thông đại chúng. Năm 1997, Hollywood phong tặng cho King danh hiệu "Ngôi sao danh dự trên bầu trời nghệ thuật". Năm 2001, King nhận giải thưởng "Unity" cho những chuyên đề xã hội. Năm 2002, King nhận được hai giải thưởng "New York Festival" cho chương trình sau sự kiện khủng bố 11/9 và chương trình phỏng vấn ca sĩ cựu thành viên nhóm Beatles Paul McCartney (ảnh bìa 4). Ông nhận được Học vị danh dự của trường đại học George Washington, học viện New England, đại học Brooklyn và Học viện Pratt, được mời đến phát biểu trong lễ phát bằng tốt nghiệp của đại học Y khoa Columbia... Larry King không đứng ngoài hoạt động từ thiện và công tác xã hội. Ông đã thành lập Quỹ từ thiện Larry King để hỗ trợ và giúp đỡ viện phí cho những bệnh nhân tim mạch. Ông tham gia nhiều hoạt động của Tổ chức tim mạch Hoa Kỳ và Tổ chức bảo vệ trẻ em. Năm 2002, King vừa thiết lập học bổng trị giá 1 triệu dollar cho những sinh viên ngành truyền thông có hoàn cảnh khó khăn ở đại học George Washington. Ngoài đời, Larry King kết hôn với diễn viên kiêm ca sĩ Shawn Southwick. Ông là bố của các con Andy, Larry Jr., Chaia, Chance và Cannon và đã có ba cháu ngoại. TRUNG NGHĨA *** Larry King (1933) là người dẫn chương trình phát thanh và truyền hình kỳ cựu trong ngành truyền thông Mỹ. Với sự nghiệp bền bỉ từ năm 1957 đến nay, ông đã giành được 2 giải Peabodys và 10 giải Cable ACE của các hiệp hội phát thanh và truyền hình Hoa Kỳ. Ông đặc biệt được biết đến với chương trình được phỏng vấn trực tiếp Larry King Live trên kênh CNN (Mỹ), thu hút hơn 1 triệu khán giả mỗi tối. Một số đầu sách bán chạy nhất của Larry King: Con đường mới dẫn vào Nhà Trắng Cha và Con Quyền năng lời nguyện cầu Nói lên sự thật Giao tiếp trong tương lai Mời các bạn đón đọc Những Bí Quyết Trong Giao Tiếp của tác giả Larry King.
Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn - Jack Canfield & D. D. Watkins
Sách Nói Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn - Jack Canfield & D. D. Watkins   Cuốn sách viết về cách hoạt động của Luật hấp dẫn trong cuộc sống của bạn, từ đó bạn có thể hiểu nhiều hơn về bản thân mình - thực ra bạn là ai và tại sao bạn lại ở đây. Cuốn sách này chính là chìa khóa của bạn. Nó có thể mở cánh cửa tới tương lai như bạn mong ước và đưa bạn tới con đường có nhiều niềm vui, sung túc và giàu có hơn. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ thấy mình được truyền cảm hứng vì bạn nhận ra rằng bạn có thể tạo ra cuộc sống mà bạn khao khát, và bạn sẽ được trao quyền khi sử dụng những công cụ, những chiến lược và những khái niệm cơ bản được chuyển tải trong những trang sách này. *** Những trích dẫn đặc sắc / Những lời nhận xét đặc biệt về sách Bạn là năng lượng Tinh khiết và đơn giản. Bạn được tạo ra từ những thứ giống như mặt trời, mặt trăng và những vì sao. Bạn là tập hợp của một luồng sinh khí có trí tuệ, biết đi, biết nói và tồn tại dưới dạng một cơ thể con người. Bạn được tạo nên từ những tế bào, những tế bào này lại được tạo ra từ các nguyên tử, và các nguyên tử này được tạo ra từ những hạt nhỏ hơn nguyên tử. Những hạt nhỏ hơn nguyên tử đó là gì? Xin thưa, đó chính là NĂNG LƯỢNG! Vạn vật đều là năng lượng. Năng lượng không được tạo ra, cũng không thể phá hủy. Tự nó đã mang tính nhân quả. Nó hiện diện như nhau ở mọi lúc, mọi nơi. Năng lượng chuyển động vĩnh hằng và không bao giờ ngừng nghỉ. Nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, luôn luôn như vậy. SUY NGHĨ SINH RA NĂNG LƯỢNG. Trong vũ trụ này không có gì là thừa cả. Mỗi người có mặt trên cõi đời này vì họ cần lấp đầy một khoảng trống nào đó, và tất cả các mảnh nhỏ đều phải vừa khít với chỗ của nó trong tấm xếp hình khổng lồ của vũ trụ. Deepak Chopra  Bạn được kết nối Bạn được kết nối với vạn vật và với tất cả mọi người. Bạn là một thể độc nhất vô nhị, một thể hoàn chỉnh, một mảnh ghép không thể thiếu trong toàn thể vũ trụ bao la này. Bạn là một trái bóng năng lượng trong một trường năng lượng rộng lớn hơn. Bạn là một phần của nguồn năng lượng lớn lao hơn; bạn là một phần của Chúa. Sự thông thái của cả vũ trụ cũng là của bạn, nếu bạn yêu cầu. Hãy nghĩ tới mạng internet. Bạn không thể nhìn thấy, cũng không thể chạm vào nó, nhưng bạn biết nó có tồn tại. Nó có thực. Nó là một nguồn năng lượng vô hình kết nối tất cả chúng ta với nhau. Bạn cũng được kết nối với mọi người và mọi vật, mọi việc theo cách tương tự như vậy. Đã bao giờ bạn nhận thấy với những người bạn thường xuyên gần gũi, thỉnh thoảng bạn có thể tiếp lời họ, hoặc cả hai bạn có thể nói một câu cùng lúc hay chưa? Đó không phải là sự ngẫu nhiên, mà là sự gắn kết! Đây là ví dụ điển hình cho thấy thật ra chúng ta được kết nối với những người xung quanh mình như thế nào. Tất cả chúng ta, ai cũng từng trải qua chuyện như thế này: khi chúng ta vừa mới bắt đầu nghĩ tới một người mà có thể chúng ta đã không nhìn thấy, hoặc không nói chuyện trong nhiều năm liền thì bỗng vài phút sau chuông điện thoại reo, và họ - người mà chúng ta vừa mới nghĩ tới - đang ở đầu dây bên kia. “Mình vừa mới nghĩ tới cậu xong!”, chúng ta thốt lên kinh ngạc. Thật ra chúng ta đã xuất hiện trong ý định gọi cho chúng ta của họ trước cả khi họ biến ý định đó thành hành động. Suy nghĩ của chúng ta di chuyển qua không gian và thời gian với một vận tốc đáng ngạc nhiên. Thông qua sự kết nối của mình, bạn có thể bắt được nguồn năng lượng từ suy nghĩ và ý định của họ trước khi họ bấm số, mà cũng có thể chính suy nghĩ của bạn về họ đã kích thích họ gọi cho bạn. Nhờ có Luật Hấp dẫn, mỗi người trong chúng ta giống như một thỏi nam châm có sức hút lớn, hấp dẫn được nhiều hơn những gì chúng ta cảm nhận được vào một thời điểm nhất định nào đó. Esther và Jerry Hicks Bạn là một thỏi nam châm Bạn là một thỏi nam châm sống. Bạn hút, theo đúng nghĩa đen của từ này, người, vật, ý tưởng và các tình huống có tần số năng lượng rung động và cộng hưởng như của bạn về phía mình. Trường năng lượng của bạn thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào suy nghĩ và cảm xúc của bạn, và vũ trụ giống như một chiếc gương phản chiếu chính xác nguồn năng lượng mà bạn đã tạo ra. Suy nghĩ và cảm xúc của bạn mãnh liệt bao nhiêu thì lực hút sẽ mạnh bấy nhiêu. Quá trình này không đòi hỏi bất kì một sự nỗ lực thật sự nào; nam châm không phải “cố” hút vật - mà đơn giản, nó có đặc tính hút vật. Và bạn cũng vậy! Bạn vẫn luôn trong quá trình hút thứ gì đó vào cuộc sống của mình. Bạn có nhận ra rằng cuộc sống hiện tại của bạn chính là kết quả của mọi thứ mà bạn đã từng nghĩ, từng làm, từng tin tưởng hoặc từng cảm nhận cho tới tận bây giờ hay không? Ngay lúc này, bạn có thể bắt đầu chủ động hấp dẫn, và hấp dẫn một cách trí tuệ, bất cứ thứ gì bạn khao khát trong cuộc sống này. Bằng việc sử dụng Luật Hấp dẫn, bạn có thể hấp dẫn con người, niềm vui, tiền bạc, ý tưởng, chiến lược và cả tình huống - tất cả mọi thứ bạn cần để có thể mang lại cho mình một cuộc sống như bạn mơ ước. Cả con người chúng ta đều là kết quả của những gì chúng ta nghĩ. Đức Phật Bạn có quyền năng Bạn có quyền năng hơn nhiều so với những gì bạn vẫn nghĩ. Bạn đang tạo ra mọi thứ trong cuộc sống của chính bản thân mình. Một khi bạn hiểu thấu đáo điều này và chịu trách nhiệm về nó, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn đặt ra. Bạn là tác giả cuộc đời mình và bạn có thể chọn cho nó bất kì con đường nào bạn thích. Bạn có khả năng thay đổi cuộc sống của bạn. Bạn có khả năng kiến tạo tương lai như bạn mong ước. Tài năng của bạn là vô hạn! Một khi bạn đưa ra quyết định, vũ trụ sẽ hiệp lực với bạn để biến điều đó thành hiện thực. Ralph Waldo Emerson *** Những nội dung khác Jack Canfield là nhà đồng sáng lập, đồng thời là đồng tác giả của seri sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn: Chicken Soup for the Souls gồm 146 câu chuyện đã bán được hơn 100 triệu bản với hơn 47 thứ tiếng trên thế giới. Ông cũng đã phát hành các cuốn sách The Success Principle: How to Get from Where You Areto Where You Want to Be, The Power of Focus và The Aladdin Factor. Mời các bạn đón đọc Người Nam Châm - Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn của hai tác giả Jack Canfield & D. D. Watkins.
Dám Ước Mơ - Florence Littauer
Sách Nói Dám Ước Mơ   Rất nhiều người ngỡ rằng ước mơ là những gì xa xôi, ngoài tầm tay với; là những viễn cảnh xa rời thực tại; là kết quả của sự thăng hoa từ cảm xúc và trí tưởng tượng của những người có tâm hồn lãng mạn. Thậm chí, có người còn cho rằng ước mơ chỉ là suy nghĩ viển vông của những ai không có động lực phấn đấu, của những người ngồi đung đưa trên chiếc xích đu ở cổng nhà mà cứ ngỡ mình đang rong chơi cùng các vì sao, của những kẻ xem bói với hy vọng được nghe những điều phán tốt lành cho tương lai, của những người sống trong mộng ảo khi luôn phân tích và tin vào số phận của mình qua những giấc mơ, hoặc của những người mua vé số và mòn mỏi đợi đến ngày con số may mắn kia được xướng lên trong bản tin chiều... Có vẻ như ước mơ không phải là bạn đồng hành thân thiết của chúng ta, mà lại sánh đôi cùng sự Mơ Tưởng hoặc niềm May Mắn. Liệu ước mơ có chút liên quan nào đến những con người trong thế giới thực tại - những người không lãng mạn cùng các vì sao, mây trời; không sống trong tháp ngà của những câu chuyện cổ tích; mà là người luôn phải bôn ba với cuộc sống, nỗ lực tìm kiếm những điều rất thực tế như sự vững chắc trong sự nghiệp, sự thành công trong kinh doanh, niềm hạnh phúc với mái ấm gia đình? Thật ra, ước mơ trong đời thực chính là những mục tiêu mà bạn khao khát đạt được trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, vẫn có một chút khác biệt giữa mục tiêu và ước mơ. Mục tiêu thường cụ thể và rõ ràng. Mục tiêu có thể theo dõi và đánh giá. Mục tiêu có thể kiểm tra và thẩm định quá trình tiến triển. Còn ước mơ sẽ làm tăng thêm cảm xúc sáng tạo cho mục tiêu, mở rộng tầm nhìn cho những định hướng và làm chúng ta thêm hy vọng ở tương lai. Ước mơ sẽ làm cho thực tế cuộc sống thêm phần tốt đẹp và sinh động hơn. Đó cũng là nội dung của cuốn sách Dám Ước Mơ của nữ tác giả Florence Littauer. Cuốn sách được dẫn dắt xuyên suốt bằng câu chuyện về cuộc đời và sự thành công của một phát thanh viên - em trai tác giả. Hy vọng với cuốn sách này, những ai chưa từng ước mơ sẽ nhanh chóng tìm thấy ước mơ của riêng mình; những ai đang nuôi dưỡng ước mơ sẽ củng cố thêm quyết tâm để biến ước mơ trở thành hiện thực; và những ai đã hoàn thành, đã chinh phục được ước mơ của mình sẽ tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm một ước mơ mới. - First News *** Như thường lệ, vào lúc 6 giờ sáng mỗi ngày, phát thanh viên Ron Chapman xuất hiện trên đài phát thanh KVIL và bắt đầu chương trình của mình bằng những câu chuyện hài hước trước khi điểm thông tin, sự kiện trong ngày. Đã hơn 20 năm qua, thính giả ở thành phố Dallas vẫn duy trì được thói quen thức dậy vào lúc 6 giờ, lắng nghe chương trình buổi sáng với Ron Chapman để được khích lệ tinh thần và tìm kiếm sự phấn khởi trước khi bắt đầu một ngày mới. Nhưng buổi sáng ngày 31 tháng 3 năm 1988 thì khác hẳn. Một chương trình phát thanh không giống bất cứ chương trình nào trước đó. Ngay lời mở đầu, Ron đã nói với thính giả của mình rằng: “Tôi muốn mọi người hãy gửi ngay cho tôi 20 đô-la!”. Chỉ một câu thông báo ngắn gọn như thế. Không hứa hẹn! Không giải thích! Cũng không lặp lại nhiều lần! Thoạt đầu, Ron nghĩ chỉ có một vài người gửi tiền, nhưng chính anh cũng không ngờ rằng sáng hôm sau đã có 4.000 chi phiếu và thêm 5.000 nữa vào ngày tiếp theo. Sang ngày thứ ba, anh lên sóng phát thanh và nói với thính giả: “Tôi đã nhận được đủ rồi! Xin các bạn đừng gửi thêm tiền cho tôi nữa. Chúng tôi thậm chí không biết phải làm gì với số tiền này!”. Mặc dù đã thông báo như thế nhưng nhiều người vẫn tiếp tục tìm mọi cách gửi tiền cho Ron. Một số gửi đến địa chỉ nhà riêng của Ron, hoặc năn nỉ nhân viên bảo vệ chuyển giúp số tiền này. Dường như có một sự thôi thúc khiến mọi người cho đi 20 đô-la mà không cần biết lý do. Không biết rõ lý do của Ron nhưng tận trong thâm tâm, những người gửi tiền biết rằng nếu Ron Chapman yêu cầu gửi tiền, thì họ muốn được là một phần trong dự án của anh. Chỉ trong vòng một tuần, Ron đã nhận đến 12.156 chi phiếu với tổng giá trị gần một phần tư triệu đô-la. Lúc đầu, Ron đã nghĩ sẽ trả lại tiền cho mọi người kèm theo một món quà cảm ơn nào đó. Nhưng khi thấy số tiền nhận được ngày càng nhiều, Ron bắt đầu cân nhắc đến các phương án sử dụng số tiền quyên góp này. Sự kiện này đã thu hút giới truyền thông đua nhau vào cuộc. Báo chí và các trạm phát thanh từ khắp mọi miền đất nước bắt đầu liên hệ để được trực tiếp gặp Ron. Điều mà tất cả mọi người đều muốn biết là: “Từ đâu anh nghĩ ra ý tưởng này? Làm sao anh có đủ can đảm đề nghị người khác gửi tiền cho mình mà không nêu bất kỳ lý do chính đáng nào cả?”. Ron kể lại rằng trong một cuộc họp với ban điều hành mới được bổ nhiệm của đài phát thanh KVIL, anh đã trình bày cho họ nghe về những thành tựu trong sự nghiệp trước đây của mình. Họ đã bật cười khi nghe anh nói: “Chúng tôi đã xây dựng KVIL trở thành đài phát thanh được yêu thích nhất tại thành phố Dallas này. Lòng tin mà mọi người dành cho KVIL là rất lớn, đến mức nếu tôi lên sóng KVIL và đề nghị mỗi thính giả gửi cho tôi 20 đô-la, tôi tin rằng nhất định mọi người sẽ làm ngay”. Sự nghi ngờ của ban điều hành chính là thách thức khiến Ron quyết tâm phải thực hiện buổi phát sóng đó, dẫn đến sự kiện quyên góp tiền qua sóng phát thanh vào ngày 31 tháng 3 mà mọi người đã biết. Các đài phát thanh cạnh tranh không khỏi ngạc nhiên trước uy tín của KVIL đối với thính giả. Làm thế nào mà KVIL có thể tạo ra tầm ảnh hưởng sâu rộng đến thế? Giám đốc một trạm phát thanh đối thủ đã phải thừa nhận: “Nếu việc quyên góp này nằm trong kế hoạch quảng bá thì đây quả là một chương trình quảng bá tuyệt vời. Tôi không chắc là mình sẽ gửi cho ai đó 20 đô-la mà không biết lý do cụ thể. Trong suốt nhiều năm làm công việc phát thanh, tôi chưa từng thấy trường hợp nào tương tự”. Ngay cả những tờ báo và tạp chí ở nước ngoài cũng đăng những bài viết đặc biệt về người phát thanh viên đã huy động được 240 ngàn đô-la mà không cần nêu lý do. Thời báo Dallas Times Herald gọi Ron là “Phát thanh viên hàng đầu ở Dallas, huyền thoại của ngành công nghiệp phát thanh, người luôn đem đến niềm vui cho mọi người và là ông vua của chương trình buổi sáng”. Vậy Ron Chapman là ai và đã làm thế nào để đạt được ước mơ của mình? Tôi sẽ kể cho các bạn nghe chi tiết câu chuyện về người đàn ông này, bởi tôi là chị của Ron và là người luôn bên cạnh Ron ngay từ khi em mới sinh ra. Tôi vẫn còn nhớ mẹ tôi đã khóc khi sinh ra em: “Lại thêm một miệng ăn nữa rồi!”. Lúc ấy không ai trong gia đình tôi nghĩ rằng sẽ có một ngày, “cái miệng ăn” ấy có thể đem lại niềm vui cho hàng ngàn người vào mỗi buổi sáng và còn có thể kiếm được nhiều tiền hơn mẹ tôi từng ao ước. Ron đã đem đến những “điều kỳ diệu” không chỉ cho cuộc sống của gia đình tôi, mà còn cho tất cả những ai có cơ duyên được biết đến em. - Florence Littauer Mời các bạn đón đọc Dám Ước Mơ của tác giả Florence Littauer.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6