Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bảy Thanh Hung Giản

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Địa Ngục Đỏ
Nhiều tháng sau khi hồn ma của Anna Korlov mở cánh cửa dẫn tới Địa ngục và bước qua, Cas vẫn không thể vượt qua chuyện đó. Cậu nhìn thấy Anna ở khắp mọi nơi, trong lúc ngủ và trong những cơn ác mộng. Nhưng mọi thứ có vẻ rất bất thường… Những thứ Cas trông thấy không phải là ảo ảnh. Anna đang bị tra tấn và mỗi lần xuất hiện, cô dường như lại phải chịu nhiều đau đớn hơn. “Cassio,” em thì thầm. “Hãy đưa em ra khỏi đây.” Cas không biết chuyện gì đã xảy ra với Anna sau khi cô xuống Địa ngục nhưng cậu biết cô không đáng phải chịu những cực hình đó. Anna đã cứu mạng Cas nhiều lần, giờ đã đến lúc cậu trả ơn cô. *** Bộ sách Anna Korlov gồm có: Oan Hồn Máu Địa Ngục Đỏ ... *** Kendare Blake là tác giả của sáu cuốn tiểu thuyết bao gồm: Sleepwalk Society, series kinh dị "Oan hồn máu" (Anna Dressed in Blood - 2011) và Girl of Nightmares (2012), series The Goddess War được xây dựng dựa trên nền tảng cuộc chiến của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp gồm Antigoddess (2013), Mortal Gods (2014), và Ungodly (2015).  Đồng thời, cô dự định ra mắt series truyện thuộc thể loại Dark fantasy mang tên Three Dark Crowns vào năm 2016.   Kendare Blake sinh ra tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc nhưng lớn lên ở thành phố nhỏ của Cambridge, bang Minnesota. Cô tốt nghiệp Đại học Ithaca, ở Ithaca, New York đồng thời nhận được bằng Thạc sĩ chuyên ngành Văn phong sáng tạo (Creative Writing) từ Đại học Middlesex tại London, Anh. Các tác phẩm của cô được bình chọn và lọt vào top 5 những cuốn tiểu thuyết kinh dị ăn khách năm 2011 trên Đài phát thanh Công chúng quốc gia của Mỹ, top 10 Kirkus. *** Tôi nghĩ mình đã từng xử lý một cô gái trông giống như cô này. Đúng rồi. Tên cô bé là Emily Danagger. Cô bé bị một tay thầu khoán thi công xây dựng nhà cho bố mẹ cô sát hại vào năm cô 13 hay 14 gì đấy. Thi thể cô bé bị nhét vào tường trong tầng áp mái rồi xây lấp lại. Tôi chớp mắt và lầm bầm trả lời qua quýt cho câu gì đấy mà cô gái trước mặt vừa hỏi. Xương gò má của Emily cao hơn. Cái mũi trông cũng khác. Nhưng hình dáng khuôn mặt thì khá giống, cứ như thể tôi đang nhìn vào cô bé mình đã lần theo lên đến phòng dành cho khách trên lầu. Tôi mất gần một tiếng đồng hồ dùng dao tế chém hết bức tường này đến bức tường khác khi cô bé cứ thoắt ẩn thoắt hiện và cố lén ra đằng sau tôi. “Tớ thích phim quái vật,” cô gái ngồi trước mặt, tên gì tôi cũng chẳng nhớ, lên tiếng. “Tớ mê Jigsaw 1* và Jason2* . Còn cậu?” * Nhân vật phản diện trong phim kinh dị Saw. * Jason Voorhees: nhân vật phản diện trong phim Friday the 13th. “Tớ không khoái phim quái vật mấy,” tôi đáp và chẳng buồn đính chính rằng cả Jigsaw lẫn Jason về cơ bản không phải là quái vật. “Tớ thích những vụ nổ, hiệu ứng đặc biệt.” Là Cait Hecht, tôi bất chợt nhớ ra tên cô. Cô là học sinh lớp 10 trường Winston Churchill. Cait có đôi mắt màu nâu lục nhạt, quá to so với khuôn mặt, nhưng trông cũng xinh. Tôi không biết mắt của Emily Danagger màu gì. Lúc tôi gặp Emily, mắt cô bé đã không còn chút huyết sắc. Tôi nhớ khuôn mặt cô bé, trắng bệch nhưng vẫn có hai con mắt, ẩn hiện giữa lớp giấy dán tường bạc màu. Nghĩ lại thì có vẻ ngớ ngẩn nhưng lúc ấy, nó là trò chơi đập chuột phiên bản ma quái vô cùng căng thẳng. Tôi ướt đẫm mồ hôi. Chuyện xảy ra cũng lâu lắm rồi, khi tôi nhỏ tuổi hơn và dễ bị kích động hơn. Phải nhiều năm sau tôi mới bắt đầu đối mặt với những linh hồn có sức mạnh thực sự - những linh hồn như Anna Korlov, người con gái lẽ ra đã có thể xé xác tôi bất kỳ khi nào em muốn, nhưng rốt cuộc lại cứu mạng tôi. Tôi đang ngồi ở cái bàn trong góc một tiệm cà phê trên phố Bay. Carmel đối diện với hai người bạn nữa của cô ấy, Jo và Chad. Tôi nghĩ hai người này đã cặp kè nhau từ năm lớp 7. Rùng cả mình. Bên cạnh tôi, Cait Hecht nghiễm nhiên được cho là bạn hẹn của tôi. Chúng tôi vừa đi xem phim. Tôi không nhớ phim có nội dung gì nhưng hình như có mấy con chó khổng lồ. Cô đang nói chuyện với tôi kèm theo những cử chỉ điệu bộ quá đà, nhướng cao mày các kiểu, phô hàm răng hoàn hảo nhờ đeo niềng từ bé, cố duy trì sự chú ý của tôi. Nhưng trong đầu tôi chỉ toàn nghĩ sao cô giống Emily Danagger đến vậy, mỗi tội ít thú vị hơn. “Ừm,” cô ngượng ngập nói, “cậu thấy cà phê thế nào?” “Ngon,” tôi đáp. Tôi cố mỉm cười. Đây không phải lỗi tại cô. Carmel mới chính là người lôi tôi vào trò hề này và tôi làm theo để cô ấy thôi lải nhải. Tôi cảm thấy mình thật khốn nạn khi làm lãng phí thời gian của Cait. Còn khốn nạn hơn khi ngầm so sánh cô với một linh hồn tôi đã tiêu diệt 4 năm trước. Cuộc nói chuyện đi vào ngõ cụt. Tôi uống một ngụm lớn cà phê. Mà đúng là nó rất ngon, nhiều đường, kem đánh xốp và quả phỉ. Bên dưới bàn, Carmel đá một cái khiến suýt chút nữa thì tôi sặc. Khi tôi ngước lên thì cô ấy đang nói chuyện với Jo và Chad những rõ là cô ấy cố ý. Tôi đang là một bạn hẹn bất lịch sự. Bên dưới mắt trái cô ấy bắt đầu giật giật. Tôi nhanh chóng tìm cách lịch sự trò chuyện. Nhưng tôi không khuyến khích chuyện này hay bật đèn xanh với cô. Dù sao tôi cũng không hiểu lý do cô muốn đi chơi với tôi. Sau những gì xảy đến với Mike, Will và Chase năm ngoái - Mike bị Anna giết, còn Will và Chase bị gã pháp sư ăn thịt - tôi bị cả trường xa lánh. Tôi không hề dính líu đến cái chết của mấy đứa đó, nhưng tất thảy đều nghi ngờ. Mọi người biết ba đứa đó ghét tôi và cuối cùng, chúng nó lại chết Có cả những giả thuyết về những chuyện có thể đã xảy ra, những đồn thổi thất thiệt cứ lan truyền rồi biến thành một mớ hổ lốn lố bịch, nhảm nhí và biến mất dần. Là ma túy đấy, thiên hạ rỉ tai nhau. Không phải, là một đường dây mại dâm ngầm. Cas cung cấp thuốc kích thích để chúng nó thể hiện tốt hơn. Cậu ta kiểu như một tên ma cô buôn ma túy ấy. Mọi người lờ tôi đi ở hành lang và tránh nhìn vào mắt tôi. Tôi nghe họ bàn tán về mình và nhiều khi, tôi nghĩ lại về quyết định học hết cấp ba ở Thunder Bay. Tôi không chịu nổi những đứa đầu đất với một mớ giả thuyết mà hầu hết đều vô cùng kỳ dị, nhưng chẳng đứa nào nhắc đến câu chuyện ma mà ai cũng biết. Không ai nói về Anna. Đó ít ra cũng là một tin đồn đáng nghe. Mấy lần tôi đã bảo mẹ chuẩn bị tìm cho chúng tôi một ngôi nhà ở một thành phố khác, nơi tôi có thể đi săn bao nhiêu linh hồn sát nhân cũng được. Lẽ ra chúng tôi đã dọn đi cách đây mấy tháng rồi nếu không phải vì Thomas và Carmel. Liếc nhìn đồng hồ trên tường, mới có 5 phút kể từ lần cuối cùng tôi nhìn nó. Tôi nghĩ có lẽ nó đã bị hỏng. Khi những ngón tay của Cait khẽ chạm vào cổ tay tôi, tôi rụt lại và uống một hớp cà phê. Tôi cũng để ý thấy cô trở mình ngượng ngùng và khó chịu trước phản ứng của tôi. Đột nhiên, Carmel nói lớn, “Tớ không nghĩ Cas đã tìm hiểu các trường Đại học đâu. Phải không, Cas?” Cô ấy lại đá chân tôi, mạnh hơn. Cô ấy đang nói gì vậy? Tôi mới học lớp 11. Tại sao phải nghĩ về trường Đại học chứ? Đương nhiên, Carmel có thể đã vạch tương lai của mình từ hồi mẫu giáo rồi. “Tớ nghĩ tới trường St. Lawrence,” Cait nói khi tôi ngồi im. “Bố tớ bảo trường St. Clair có thể tốt hơn. Nhưng tớ không biết ông ấy bảo ‘tốt hơn’ là sao.” “Ừm,” tôi ậm ừ. Carmel nhìn tôi như thể tôi là một thằng đần. Tôi suýt nữa phá lên cười. Cô ấy có ý tốt, nhưng tôi tuyệt đối chẳng có gì để nói với mấy người này. Tôi ước có Thomas ở đây. Khi điện thoại trong túi bắt đầu rung, tôi liền đứng bật dậy ra khỏi bàn. Cả bọn sẽ bắt đầu nói về tôi ngay giây phút tôi ra cửa, thắc mắc không biết tôi bị gì và Carmel sẽ bảo rằng chỉ là tôi hồi hộp thôi. Muốn nói gì thì nói. Là Thomas gọi. “Này,” tôi nói. “Cậu đang đọc ý nghĩ của tớ đấy à, hay chỉ là trùng hợp?” “Tệ vậy hả?” “Không tệ hơn tớ nghĩ. Chuyện gì thế?” Tôi gần như có thể cảm thấy cậu ấy nhún vai bên kia đầu dây. “Không có gì. Chỉ nghĩ là có thể cậu cần lý do để chuồn. Tớ vừa lấy ô tô khỏi hàng sửa chữa chiều nay. Giờ nó có khi đưa được bọn mình tới Grand Marais.” Tôi vừa định nói, “Ý cậu có khi là sao?” thì cửa quán cà phê bật mở và Carmel đi ra. “Khỉ thật,” tôi làu bàu. “Sao?” “Carmel đang đến.” Cô ấy dừng lại trước mặt tôi, hai tay khoanh trước ngực. Thomas vẫn léo nhéo hỏi có chuyện gì và liệu có nên qua nhà đón tôi không. Trước khi Carmel kịp nói, tôi đã áp điện thoại vào tai và đáp được. Carmel kiếm cớ cho chúng tôi. Trong chiếc Audi, cô ấy chiến tranh lạnh thành công trong 40 giây khi lái xe xuyên qua những con phố của Thunder Bay. Có một sự trùng hợp khá lạ lùng là đèn đường nhất loạt bật lên khi chúng tôi đi qua, cứ như một người hộ tống màu nhiệm. Những con đường vẫn còn ướt với băng đọng bên lề đường. Kì nghỉ hè sẽ bắt đầu trong hai tuần nữa, nhưng có vẻ như thị trấn không hay biết điều đó. Đã cuối tháng Năm rồi mà vào ban đêm, trời vẫn lạnh toát. Dấu hiệu duy nhất cho thấy mùa đông sắp kết thúc là những cơn bão: gào thét, cùng cơn gió thổi qua hồ và quay trở lại, cuốn đi những lớp băng mỏng của mùa đông. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho quá nhiều tháng lạnh lẽo như vậy. Mùa đông bao quanh thành phố như một nắm tay siết chặt. “Tại sao cậu còn vác xác đến làm gì?” Carmel hỏi. “Nếu cậu định hành xử kiểu đấy? Cậu đã làm Cait buồn.” “Chúng ta đã làm Cait buồn. Ngay từ đầu, tớ đã không muốn dính dáng gì đến rồi. Cậu mới chính là người gieo hy vọng cho cô ấy.” “Cô ấy đã thích cậu từ lớp Hóa học kỳ trước,” Carmel lườm. “Vậy lẽ ra cậu nên nói cho cô ấy biết tớ đáng ghét đến mức nào. Cậu làm tớ giống như một thằng đần.” “Tốt hơn cả là để cô ấy tự mình trải nghiệm. Cậu gần như không nói quá 5 từ với bất kỳ ai.” Nét mặt cô ấy cau lại thất vọng, thêm chút nữa là thành chán ghét. Thế rồi, cô ấy dịu mặt lại và vén mái tóc vàng ra sau lưng. “Tớ chỉ nghĩ cũng tốt nếu cậu ra ngoài và kết bạn mới.” “Tớ gặp nhiều người mới rồi.” “Ý tớ là người sống kìa.” Tôi nhìn thẳng về phía trước. Có thể cô ấy nói bóng gió về Anna, cũng có thể không. Nhưng tôi thấy hơi bực. Carmel muốn tôi quên chuyện đó đi. Quên rằng Anna đã cứu tất cả chúng tôi, rằng em đã hy sinh bản thân và kéo gã pháp sư xuống Địa ngục. Carmel, Thomas và tôi đã cố tìm hiểu chuyện gì xảy đến với em sau đêm đó, nhưng vô vọng. Tôi đoán Carmel nghĩ đã đến lúc thôi tìm kiếm và để em đi. Nhưng tôi sẽ không làm thế. Chuyện tôi có nên làm thế hay không không quan trọng. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục Đỏ của tác giả Kendare Blake.
Ma Nữ của Laplace
Những hiện tượng dị thường xuất hiện quanh Madoka, một cô gái trẻ. Sau thời gian làm vệ sĩ cho cô, Takeo, một cựu cảnh sát, đã nhận thấy điều đó. Trong khi những nghi vấn của anh chưa có lời đáp, Madoka đột nhiên biến mất…  Cùng lúc đó, những vụ tử vong vì khíhydro sulfuaxảy đến tại hai khu du lịch suối nóng cách xa nhau. Đến hiện trường điều tra, giáo sư chuyên ngành địa hóa học Aoe chạm tránmột cô gái trẻ bí ẩn. Lần theo tung tích của cô, Aoe bắt gặp một thảm kịch kinh hoàng từ quá khứ, và sự tồn tại của một dự án tối mật có liên quan tới tương lai nhân loại…  “Một cuốn sách đáng kinh ngạc phá vỡ giá trị quan của tôi từ trước đến nay.” - Horikita Maki, – nữ diễn viên chính phim Bạch Dạ Hành *** Reviewer: Điền Yên Tôi khá phân vân trước khi đọc Ma nữ của Laplace vì cái đoạn giới thiệu ở bìa 4 sách. Cái gì mà cô gái biến mất, vòi rồng rồi thì tương lai nhân loại. Tôi đã tưởng tượng bối cảnh người ngoài hành tinh xâm chiếm trái đất không thì cũng là AI gì gì đó. Lẽ nào Keigo đã bay sang cả thể loại viễn tưởng? Đắn đo một hồi rồi tôi cũng quyết định đọc Ma nữ trước Trứng chim vì dàn trang nó đẹp hơn. Vẫn như đa số tác phẩm khác, mở đầu truyện là màn giới thiệu một loạt nhân vật và một loạt câu chuyện tưởng như chẳng liên quan gì đến nhau: một đạo diễn nổi tiếng đi nghỉ suối nước nóng cùng cô vợ trẻ đẹp bị chết vì nhiễm độc H2S, mặc dù cái chết hoàn toàn là do hiện tượng tự nhiên nhưng vẫn có quá nhiều điểm kỳ lạ nên theo thông lệ là sẽ có người nghi ngờ và kiên trì điều tra; một diễn viên vô danh cũng chết theo cách thức tương tự; một cô bé có mẹ bị chết vì vòi rồng; một cảnh vệ phải về vườn vì tăng axit uric máu bất ngờ nhận lời mời làm vệ sĩ cho một thiếu nữ… Các câu chuyện rời rạc dần được chắp nối vào nhau thành một bức tranh toàn cảnh thông qua điều tra của cảnh sát Nakaoka và giáo sư Aoe. Rất nhiều người nói “nếu biết trước thế này thì tôi đã…” nhưng dự đoán được tương lai có phải điều may mắn không? “Con người mang trong mình ước mơ vì chưa biết tương lai sẽ ra sao”. Nếu không có ước mơ, chúng ta sống như chỉ chờ để chết. Thế nên nếu cho lựa chọn biết trước tương lai hoặc không, tôi sẽ chọn vế sau. Dù sao, hiện tại cũng là một món quà và vị lai là một điều bí mật. Quay trở lại với Ma nữ của Laplace. Cội nguồn của tội ác trong tác phẩm đề cập tới một vấn đề gây tranh cãi: tội phạm có phải là bẩm sinh hay không, đặc biệt là những kẻ thái nhân cách. Có những giả thuyết cho rằng có những kẻ sinh ra đã có gen phạm tội, cấu tạo não của họ không có sự xót thương, đồng cảm nên giết chóc và hành hạ người khác với họ chẳng khác gì những việc làm bình thường như nấu ăn, xem phim. Sinh ra đã như vậy không phải lỗi của họ, vậy nếu họ phạm tội thì có bị trừng phạt không? Nếu phạm tội do bẩm sinh khuyết tật về não cũng trừng phạt thì những người đồng tính có bị trừng phạt vì “tội đồng tính” hay không, khi mà WHO đã coi đồng tính không phải bệnh mà là tự nhiên? Câu trả lời, dĩ nhiên không được tác giả đưa ra. Keigo luôn vô cùng khôn khéo trong việc đưa vấn đề cho độc giả còn mình chẳng bày tỏ gì. Kẻ thủ ác trong truyện người thì bị trừng phạt, người thì bỏ đi, một số người liên đới dù làm việc ác cũng vẫn sống nhơn nhơn. Cuộc sống luôn không công bằng và truyện của Keigo không cố gắng thay đổi điều ấy. Hầu hết bi kịch của loài người xuất phát từ lòng tham lam, sự ích kỷ, thói đố kị. Bài học rút ra từ truyện này là nếu bạn muốn giết người mà không để lại bất kỳ dấu vết nào thì cách tốt nhất là lợi dụng thiên tai để người đó chết vì thiên tai, để làm được việc này thì hoặc bạn hên hoặc bạn có một trí tuệ siêu phàm, có thể căn cứ vào các dữ liệu trong quá khứ mà dự đoán tương lai. Truyện rất cuốn hút, tình tiết lồng ghép luôn là thế mạnh vô địch của Keigo. Nhưng trong Ma nữ của Laplacd, tôi vẫn thấy thiêu thiếu điều gì đó khiến tôi không thể chấm cuốn này xuất sắc. Chấm điểm: 8-/10 *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm Án Mạng Mười Một Chữ ... *** Madoka tỉnh giấc vì một cơn rung nhẹ. Vừa mở mắt đã thấy ngay một vật là lạ trước mặt mình. Phải mất một lúc Madoka mới nhận ra đó là phần nóc của một chiếc xe hơi. Ngay sau đó Madoka nhớ ra việc mình đã tới cửa hàng cho thuê xe cạnh sân bay Asahikawa. Nhưng Madoka không thể nhớ nổi mình đã leo lên chiếc xe nào. Vì xe chạy chưa lâu thì Madoka bị cơn buồn ngủ tấn công và ngả lưng ở băng ghế sau rồi. Uhara Madoka chậm rãi ngồi dậy, ngắm nhìn khung cảnh ngoài cửa xe. Xung quanh họ là cánh đồng bát ngát, những ngôi nhà kính nối tiếp nhau. Xa xa có thể thấy thấp thoáng những ngọn đồi. “Con ngủ say thật.” Mina, mẹ cô bé, từ ghế lái ngoảnh lại nói. “Mẹ cứ lo con sẽ trở mình rồi ngã phịch khỏi ghế đấy.” “Chúng ta đang ở đoạn nào rồi mẹ?” “Sắp tới nơi rồi. Tầm hai mươi phút nữa là đến.” “Con ngủ lâu thế rồi cơ à.” Madoka chớp chớp, rồi dụi mắt. Quê ngoại Madoka cách sân bay khoảng ba tiếng lái xe. Sau khi thấm họng với nước trà đóng chai, Madoka lấy gương từ chiếc xắc tay ra. Cô bé cần kiểm tra xem tóc mình có bị mất nếp sau giấc ngủ không. Bố thường tròn mắt hỏi một đứa nhóc mới học tiểu học như Madoka mà khi nào cũng mang theo gương bên mình cơ à, nhưng với một cô bé thì đây là chuyện đương nhiên. Khi Madoka vừa nhìn vào gương, chợt thấy thân xe rung lắc hai bên. “Ơ? Sao thế này?” “Gió đấy.” Mina nói. “Hôm nay gió mạnh lắm.” “Mẹ nhắc con mới nhớ, máy bay hôm nay cũng hơi rung mẹ nhỉ.” “Ừ. Vào mùa này, khí quyển vùng này hay mất ổn định.” Mina tuy tốt nghiệp khối văn học, nhưng dùng những từ ngữ chuyên ngành tự nhiên hết sức lưu loát. Có lẽ là do ảnh hưởng của chồng. Bố của Madoka là bác sĩ mà. Sau đó, xe thong thả chạy qua một con đường nữa, chẳng mấy chốc khung cảnh quen thuộc đã dần hiện ra. Bên phải đường là cánh đồng bao la trải rộng, bên trái là các tòa nhà công xưởng. Ngay cạnh công xưởng là một công viên tổng hợp, nếu phóng tầm mắt về phía trước sẽ thấy một bãi trượt tuyết nhỏ do thành phố quản lý. Mới đầu tháng Mười một nên vẫn chưa có tuyết. Sau khi đi qua vùng đó, nhà cửa và quán xá nhiều dần lên, cuối cùng cũng ra dáng phố thị. Tuy nói vậy nhưng nó cũng chỉ là một khu phố nhỏ. Trường tiểu học, cấp hai và cấp ba nằm gọn trong một chu vi chỉ vài trăm mét. Mina xoay tay lái hết cỡ. Chiếc xe thuê ngoặt trái nơi góc đường có cửa hàng mì soba, rồi nhanh chóng dừng lại trước cửa một ngôi nhà gỗ vuông vắn. Madoka xuống xe, nhấn chuông gọi cửa. Mina mở khoang sau xe, dỡ hành lý xuống. Cửa vào nhà nhanh chóng mở ra, bà ngoại Yumiko của Madoka xuất hiện. “Ôi, Madoka đấy à? Cháu mau lớn quá!” Yumiko bước như nhảy xuống bậc thang, tà áo cardigan màu hồng phất phơ. Bà chưa tới bảy mươi, chân tay hãy còn khỏe mạnh. “Cháu chào bà.” Madoka cúi đầu. “Xa thế mà cháu tới tận đây thăm bà à. Có mệt không cháu?” “Dạ không, cháu ngủ nên không mệt chút nào ạ.” “Con mới là người mệt này. Mẹ mang cái này vào đi.” Mina nói với mẹ ruột cộc lốc, tay đưa ra một túi giấy và túi xách. “Con đi đậu xe ở bãi đậu mọi khi rồi về ngay.” Trước mẹ ruột, Mina lập tức trở nên kẻ cả. Có lẽ đó cũng là một dạng được chiều quá sinh hư. Yumiko nói bà biết rồi, và vui vẻ làm theo. Tháng Mười một ở Hokkaido thật lạnh. Madoka chỉ khoác một áo nỉ có mũ ngoài chiếc áo phông dài tay. Trước khi để Yumiko phải giục, Madoka đã chạy lên bậc thang tới cửa nhà rồi. Tại phòng khách hướng ra vườn, vừa uống tách trà Yumiko pha cho, Madoka vừa kể chuyện trường lớp, bạn bè. Madoka nghĩ những chuyện đó chẳng thú vị mấy, nhưng có lẽ chỉ cần nghe giọng Madoka là đủ vui rồi, nên bà vừa cười tươi vừa hưởng ứng câu chuyện của Madoka. Chẳng lâu sau Mina cũng về tới, bắt đầu uống nước từ chai nhựa lôi trong tủ lạnh ra. “Zentaro cuối cùng vẫn không xin nghỉ phép được nhỉ.” Yumiko hỏi Mina. Zentaro là bố của Madoka. “Nghe nói sắp có một ca phẫu thuật quan trọng. Anh ấy nhờ con gửi lời hỏi thăm bố mẹ.” Mina vẫn đứng nguyên, trả lời. “Nghề bác sĩ vất vả thật đấy. Không nhờ ai làm thay được hả con?” “Hình như đây là ca phẫu thuật đầu tiên của bệnh này trên thế giới, ngoài chồng con không ai thực hiện được. Con không rõ lắm, nhưng nghe nói bệnh nhân chờ phẫu thuật là một bé trai mười hai tuổi.” “Ôi, còn bé thế mà phải phẫu thuật ư. Tội nghiệp thằng bé. Mười hai tuổi không phải chỉ hơn Madoka hai tuổi thôi sao.” Yumiko chớp chớp mắt nhìn Madoka. Chuyện này Madoka nghe lỏm bố mẹ thảo luận nên đã biết sơ sơ. Cậu bé bị cuốn vào một vụ tai nạn, không hồi tỉnh được - đại khái nội dung như vậy. “Nhưng mà thôi, hai mẹ con về chơi là tốt rồi. Mẹ với bố hôm trước còn lo Zentaro bận việc nên hai mẹ con cũng không về luôn đấy.” “Hai người, à không, bố mẹ chỉ muốn gặp Madoka thì có.” Trước lời lẽ hờn giận của con gái, Yumiko thản nhiên trả lời: “Đúng đấy, chính là như vậy, điều đó không phải là đương nhiên sao.” Rồi bà nói “Nhỉ?” để tìm sự đồng tình của Madoka. Madoka cười. Được nghe những mẩu đối thoại kiểu này giữa mẹ và bà ngoại là một trong những điều cô bé mong ngóng ở chuyến đi. Nhờ ngày kỷ niệm thành lập trường mà Madoka đang theo học, đầu tháng Mười một thường có đợt nghỉ dài ngày. Năm nay đợt nghỉ là bốn ngày. Nếu công việc của Zentaro cho phép, cả gia đình sẽ đi du lịch. Zentaro nói các năm trước đều đi Hawaii, nên năm nay anh đề nghị về thăm bố mẹ Mina. Có lẽ anh thấy có lỗi vì lâu rồi chưa đưa cháu về thăm ông bà ngoại. Nhưng rồi kế hoạch phẫu thuật đó chen vào, nên cuối cùng Zentaro không tới được. “Bố con đâu ạ? Bố ra ngoài à?” Mina hỏi. Yumiko đáp ông đi dự đám tang. “Nghe nói một cán bộ ở công ty bố con làm ngày trước vừa mất. Hồi bố con còn trẻ, ông ấy đã giúp đỡ bố con nhiều. Hình như là bị ung thư, nhưng ông ấy cũng tám mươi tuổi rồi, nên không hẳn là chết trẻ.” Hội trường tang lễ ở khu phố bên cạnh. Đang nói dở chuyện đó thì điện thoại đặt trên kệ reo vang. “Ô kìa, vừa nhắc xong.” Vừa nói Yumiko vừa đứng lên, nhấc ống nghe. “Vâng, nhà Ebisawa xin nghe… Ôi quả nhiên là ông. Tang lễ kết thúc chưa ông?… Thế à. Mẹ con Mina về chơi đấy… Mà ông vừa uống rượu phải không? Ông không sao chứ?” Mina tới gần như thể đánh hơi thấy điều gì, rồi cướp ống nghe từ tay Yumiko. “A lô, bố ạ? Con Mina đây… Vâng, con khỏe. Mà bố ơi, không được lái xe sau khi uống rượu đâu ạ… Bố nói gì thế. Không được. Để con đi đón, bố đợi con tới nhé… Con sẽ đi xe đạp tới… Không sao đâu, chỉ khoảng ba ki-lô-mét thôi mà. Xe bố là xe Hiace đúng không ạ? Thế nên có thể chất xe đạp lên mang về được… Vâng, con biết. Con đi liền. Thế nhé.” Mina ngắt máy, thở dài nhìn mẹ. “Sao mẹ lại để bố con lái xe đi. Mẹ biết bố thế nào cũng uống say bí tỉ rồi mới về mà.” “Mẹ biết thế, nhưng bố con có bao giờ nghe theo mẹ đâu.” “Mẹ nuông chiều bố con như vậy là không được. Mẹ nghe giọng bố rồi chứ? Mẹ không thấy giọng bố lè nhè à? Nếu để thế này, có ngày bố con sẽ gây tai nạn mất.” Mina ra khỏi phòng khách. “Chờ con với!” Madoka chạy theo. “Con cũng đi.” “Madoka đợi ở nhà đi. Chỉ có một cái xe đạp thôi*.” “Mẹ chở con là được mà. Con muốn đạp xe đi dạo trên đường phố Hokkaido cơ!” Mina vừa xỏ giày vừa cười. “Cái xe đó không đủ điệu đà để đạp đi dạo được đâu. Có ai lại chở một người bằng xe đạp tới khuyên người khác không nên lái xe sau khi uống rượu bao giờ. Mà thôi cũng được.” “Vâng, được chứ, được chứ! Đi thôi đi thôi!” “Nhưng mà mặc bộ đó lạnh đấy. Con có mang theo áo phao gi-lê đúng không? Mặc cái đó vào đi.” “Vâng.” Khi Madoka khoác áo phao gi-lê lên người rồi ra ngoài, thì Mina đã lôi được chiếc xe đạp phía sau nhà ra. Quả thật chiếc xe không hợp với việc “đạp xe đi dạo” chút nào. Đó là một chiếc xe thô lậu dùng để chở hàng, đôi chỗ nổi lên những vết gỉ sét. Nhưng nó có vẻ vững chắc, và yên sau rộng để ngồi. “Nhìn hướng mây đen bay này.” Mina nhìn lên trời lẩm bẩm. Madoka cũng nhìn lên. Bầu trời phía xa đen kịt. Như thể trời sắp mưa tới nơi. “Chúng ta đi mau thôi mẹ.” “Ừ. Con bám chắc lấy mẹ nhé.” “Vâng.” Madoka vòng hai tay quanh thân thể mảnh mai của mẹ. Mina bắt đầu đạp pê-đan. Gió đằng trước có vẻ lạnh, nhưng Madoka áp má vào lưng mẹ nên không sao. Hơi ấm và mùi hương của mẹ truyền tới cô bé qua lớp áo khoác len màu xanh. Vì là khu phố nhỏ nên đạp xe một lúc, nhà dân đã thưa thớt hẳn. Khi ra tới con đường thẳng sắp dẫn tới khu phố bên cạnh, đột nhiên xung quanh tối sầm. Gần như cùng lúc đó, chiếc xe đạp khựng lại. “Sao thế mẹ?” Ngay sau câu hỏi của Madoka, có cái gì đó rơi rào rào từ trên trời xuống. Nếu là mưa thì trông lạ quá. Nhìn thứ vừa rơi vào cánh tay mình, Madoka kinh ngạc. Đó là một viên đá nhỏ. “Khổ rồi!” Mina nói, quay xe lại. Đập vào mắt Madoka là một cột đen thẳng tắp kéo dài từ bầu trời đen kịt tới mặt đất “Mẹ ơi, kia là cái gì?” “Vòi rồng đấy!” Mina kêu lớn. “Phải mau tìm chỗ trốn thôi!” Những hạt mưa bắt đầu rơi. Mina gắng hết sức đạp pê-đan. Madoka nhìn ra phía sau, giật thót mình. Vì cây cột tròn khổng lồ màu đen mỗi lúc một tiến gần họ. Vô số vật thể đang bị cuốn bay lên trời. “Mẹ ơi, nó đuổi kịp chúng ta mất!” Mina dừng xe. “Mau xuống xe! Qua chỗ này!” Vứt xe ở đó, Mina nắm lấy tay con, bắt đầu chạy. Con gió dữ dội lạnh buốt khiến cơ thể chị bị đẩy lùi lại. Không có nhà dân, nhưng ở bên đường có một ngôi nhà trông tựa nhà kho. Trước nhà có xe tải và những máy móc nặng nề. Mina chạy vội vào trong nhà. Nơi đây giống như văn phòng của một cơ quan nào đó, một phụ nữ trung niên đeo kính đang nhìn ra khung cảnh ngoài cửa sổ. Từ cửa sổ đó không nhìn thấy vòi rồng. Trước sự xâm nhập đột ngột, người phụ nữ trung tuổi tỏ rõ vẻ bối rối. “Có chuyện gì vậy?” “Vòi rồng chị ạ!” Mina hét lên, kéo cánh tay Madoka, đẩy cô bé xuống gầm chiếc bàn bên cạnh. Ngay sau đó, cùng với một tiếng động khủng khiếp, cả căn nhà rung lên. Bị một cơn gió dữ dội cuốn lấy, chiếc bàn Madoka trú bên dưới đổ qua một bên. Cô bé nhìn thấy thân thể đang nằm úp của Mina bay lên, rời khỏi nền nhà. “Mẹ!” Madoka kêu lên thảm thiết. Các mảnh kính và gạch vụn bay lên. Bụi mù mịt, mở mắt ra cũng thật khó khăn. Madoka nhắm tịt mắt, đợi thời khắc ác mộng qua đi. Tiếng động chấm dứt, Madoka run run mở mắt. Xung quanh sáng sủa đến kỳ lạ. Chẳng mấy chốc, cô bé nhận ra các bức tường của ngôi nhà đều đã biến mất. Chiếc xe tải đỗ trước cửa bị lật ngang. Không thể tưởng tượng trên đời lại có quang cảnh như vậy. Khi đó cột xoáy tròn như một con rồng đen đang rời đi xa. Nhưng Madoka vẫn chưa thể ra khỏi gầm bàn. Vì có rất nhiều thứ đang rơi từ trên trời xuống. Thêm nữa, cơn sợ hãi khiến cơ thể cô bé không thể cử động nổi. Nghe thấy tiếng động lớn ngay gần đó, cô bé quay qua nhìn, hóa ra là mái tôn. Nó đã bị thổi bay lên trời lúc trước, giờ vừa rơi xuống. Madoka hít mạnh một hơi rồi bò ra. Chân cô bé run lập cập, bước không vững. Nhìn xung quanh, cô bé hoảng hốt. Ngôi nhà mà hai mẹ con chạy vào giờ không còn chút vết tích. Chỉ còn lại một đống gạch vụn. “Mẹ ơi, mẹ ơi!” Madoka lấy hết sức, gọi liên tiếp mấy câu. Nhưng không có lời đáp. Vừa gọi vừa khóc, cô bé đi quanh đám gạch vụn. Xa xa có tiếng loa thông báo. Vòi rồng đen đó đã hướng về phía khu phố. Liệu bà ngoại có bình an không? Một vật thể màu xanh dương quen thuộc lọt vào tầm mắt Madoka. Cô bé nhìn về phía đó. Không thể nhầm được. Đó chính là chiếc áo khoác len của Mina. Nó đang nằm dưới bức tường đổ. Dồn hết sức lực, Madoka đẩy những mảnh tường sang một bên. Một lúc sau nửa thân trên của Mina hiện ra. Khuôn mặt chị xám ngắt, đôi mắt nhắm nghiền. “Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ mở mắt ra đi!” Madoka dùng hết sức lay thân thể mẹ, vỗ vỗ vào má mẹ. Mí mắt Mina khẽ động đậy. Sau đó hé mở. “A, mẹ! Mẹ! Mẹ ráng lên! Con sẽ gọi bác sĩ bây giờ!” Không biết câu nói của Madoka có được Mina nghe thấy không. Nhưng Mina mỉm cười. Sau đó lưỡi chị hơi cử động. “Gì cơ ạ?” Madoka ghé tai vào sát miệng mẹ. “Tốt rồi.” Hình như Mina thì thầm như vậy. Sau đó, chị lại nhắm mắt. “Không! Không! Không! Mẹ, mẹ đừng chết! Đừng chết! Không! Không!” Madoka ôm chặt thân thể mẹ, kêu lên. Nước mắt không ngừng tuôn rơi.   Mời các bạn đón đọc Ma Nữ của Laplace của tác giả Higashino Keigo.
4MK
4MK - cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại tiểu thuyết kinh dị, gay cấn. "Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC" Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** “Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC” Với 4MK, tác giả J.D. Barker được đánh giá là thế hệ tiếp theo của Stephen King và Thomas Harris. Tên sách có vẻ gì khó hiểu, mang tính học thuật và toán học quá… thực chất để ý hình con Khỉ trang bìa thì đây là từ viết tắt của ‘The-4th-Monkey-Killer’ (con khỉ thứ 4 làm điều xấu…chưa hiểu lắm đúng không???), nếu dân văn phòng thì không xa lạ gì 4 bức hình nhân “chú tiểu”, chú thứ nhất: bịt tai – không nghe điều xấu, chứ thứ hai: bịt mắt – không thấy điều xấu, chú thứ ba: bịt miệng – không nói điều xấu, chú thứ tư: khoanh tay sau mông – không làm điều xấu… nhưng nguồn gốc thật sự thì bắt nguồn từ văn hóa Nhật Bản, bốn chú tiểu hiện hành bạn thấy trên bàn làm việc là tượng trưng cho bốn chú khỉ… và 4MK tượng trưng cho con khỉ thứ 4, và tất nhiên con khỉ này được hiện thực hóa trong khuông khổ…đã-làm-điều-xấu. Mình rất thích lối kể chuyện mở ra bằng một kết thúc, và trong tác phẩm này cũng vậy… một tai nạn xe buýt tình cờ đã tông chết kẻ thủ ác và kéo lê xác hắn tận 5m – kẻ đã thực hiện thành công các cuộc tra tấn về mặt thể xác lẫn tinh thần của bất kỳ nạn nhân nào hắn “vô tình” bắt được, tất nhiên là tài xế xe buýt vô can! Bằng bút pháp tả thực… từng chân tơ, kẻ tóc của nạn nhân được tác giả miêu tả đầy mang rợ, tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiến cái ác được diễn ra nhưng vô cùng câm lặng không thể thốt thành lời. Tên thủ ác lần lượt là cắt tai, cắt lưỡi, khoét mắt của nạn nhân và gửi từng bộ phận đấy về cho chính cha mẹ ruột của họ… trước khi phần còn lại của cái xác nằm gói gọn đâu đó bên mặt hồ tĩnh lặng hay công viên thanh vắng… Nếu các bạn đã đọc “Sự im lặng của bầy cừu” thì sẽ thấy quen thuộc với kiểu ra tay tàn ác của kẻ sát nhân nhưng (LƯU Ý: spoil sự im lặng của bầy cừu) Jeam Gumb giết nạn nhân xong mới lột từng tấm da lưng, thì trong căn phòng tối này 4MK tra tấn thể xác họ… ngay khi họ còn sống!!! Tất nhiên không có bất kỳ một cuộc dạo chơi hoặc thuật dẫn dắt tâm lý nào từ kẻ thủ ác trong 4MK (đỡ phải chịu cảm giác nhức nhói về mặt tâm lý so với đọc Sự Im lặng của bầy cừu!) Vẫn phong cách đặt vấn đề quen thuộc của mình… để một cuộc giết người diễn ra cần ba yếu tố “nguyên nhân – động cơ – mục đích”, thế nguyên nhân gì đã khiến 4MK thực hiện cuộc thanh trừng như một kẻ mộ điệu thực thi công lý, và tội ác của hắn hiễn nhiên thách thức các mật vụ điều tra liên bang suốt nữa thập kỳ để rồi một chiếc xe buýt vô tình cán chết hắn, tất nhiên là hắn vừa mới thực hiện thành công một ca “tùng xẻo tai của một bé gái mười sáu tuổi” và cái chết của hắn đặt ra một dấu chấm hỏi rất lớn… cái ác vẫn tiếp diễn cho dù kẻ thủ ác thật sự đã chết??? Không có bất kỳ dòng hồi tưởng nào của kẻ sát nhân, xin nhắc lại đây là bút pháp tả thực, không ảo mộng về quá khứ, không huyễn hoặc tự đặt mình vào vai kẻ sát nhân và tưởng tượng! Tuy nhiên kẻ thủ ác vẫn để lại cuốn nhật ký, và nội dung quyển nhật ký tuyệt đối không liên quan gì về cô gái mười sáu tuổi… cuốn nhật ký như một thái độ tự mãng, một lời thách thức đối với cục điều tra liên bang! Dưới nhận định của một trong các điều tra viên thì “hắn như muốn bất tử, dùng cái chết để trở nên vĩnh hằng”. Điều mình thật sự thích trong tác phẩm này là quá khứ và hiện thực được kể lại song song nhưng ngược lối, có những lúc mình chỉ muốn đọc liên tục nội dung cuốn nhật ký của kẻ sát nhân, để hiểu được nguyên nhân – động cơ – mục đích của cuộc thanh trừng này, và tất nhiên, bài toán không hề đơn giản như vậy, một lần nữa chính các độc giả cũng như các bạn sẽ bị lừa như chính các điều tra viên liên bang mà thôi! Cậu truyện trong nhật ký là gì, cô gái mười sáu tuổi rồi sẽ ra sao??? Tất cả đang chờ các bạn trong cuốn 4MK, và mình chốt hạ câu cuối, hiện thực tàn ác… không có chỗ cho cung đàn ảo mộng đâu, nên đừng đọc vài trang sách đã tự mãng đoán ra được cái kết! Nếu dễ dàng như vậy thì 4MK đã không đạt danh hiệu “Cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại Tiểu thuyết Kinh dị, gay cấn”! Reviewer: Nhut Phan *** Porter Ngày 1 - 6:14 sáng Lại là nó, tiếng chuông điện thoại réo rắt mãi không dứt. Mình tắt chuông rồi cơ mà. Tại sao lại có chuông báo tin nhắn? Tại sao lại có tiếng chuông kêu nhỉ? Steve Jobs mất, Apple cũng ngắc ngoải theo luôn. Sam Porter lăn người sang bên phải, tay quờ quạng tìm chiếc điện thoại để trên kệ tủ đầu giường. Chiếc đồng hồ báo thức bay xuống, vỡ tan tành dưới nền nhà, kèm theo là tiếng rơi vỡ đặc trưng của món đồ điện tử rẻ tiền xuất xứ Trung Quốc. “Tiên sư cái tay.” Mần mò mãi, khi những ngón tay chạm được tới chiếc điện thoại, Porter rứt nó khỏi dây sạc rồi đưa ra trước mặt, nheo mắt liếc nhìn màn hình nhỏ xíu sáng chói. GỌI CHO TÔI - 911 Tin nhắn của Nash. Porter liếc nhìn sang vợ ở bên kia giường, chẳng thấy người đâu, chỉ thấy một tờ giấy nhắn: Em đi mua sữa, sẽ về ngay. xoxo, Heather Anh cằn nhằn gì đó rồi lại đưa mắt nhìn vào điện thoại. 6:15 phút sáng. Đáng buồn thay cho một buổi sáng tĩnh lặng. Porter ngồi dậy rồi ấn số gọi cho người cộng sự. Nash bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “Sam à?” “Ừ, Nash.” Người đàn ông ở đầu dây bên kia nín lặng trong giây lát. “Tôi rất xin lỗi, Porter ạ. Tôi đã đấu tranh rất lâu không biết có nên gọi cho anh hay không. Chắc tôi phải bấm số của anh cả chục lần rồi ấy, nhưng vẫn chẳng dám xuống tay nhấn nút gọi. Cuối cùng tôi quyết định tốt hơn hết là nhắn tin cho anh. Để anh có cớ bơ tôi, anh hiểu chứ?” “Không sao đâu mà Nash. Có chuyện gì thế?” Lại tiếp tục là một khoảng lặng. “Anh sẽ muốn xem tận mắt đấy.” “Xem cái gì?” “Có một vụ tai nạn.” Porter day day thái dương. “Tai nạn á? Chúng ta là Tổ Trọng án cơ mà. Tại sao phải quan tâm tới tai nạn nhỉ?” “Anh phải tin tôi lần này. Anh sẽ muốn xem qua đấy.” Nash nói lại lần nữa. Giọng anh chàng nghe là lạ. Porter thở dài. “Ở đâu thế?” “Gần công viên Hyde Park, ven đường 55. Tôi nhắn anh địa chỉ rồi đấy.” Chuông báo tin nhắn vang lên to tướng sát bên tai, Porter đưa chiếc điện thoại ra xa. Mẹ cha cái thứ iPhone rởm đời! Anh nhìn xuống màn hình điện thoại, ghi lại địa chỉ rồi tiếp tục cuộc gọi. “Tôi sẽ có mặt trong khoảng ba mươi phút. Như thế được chứ?” “Được.” Nash đáp. “Chúng tôi chưa xong việc nhanh đến thế.” Porter ngắt máy rồi nặng nhọc lết hai chân xuống khỏi một bên giường, lắng nghe cái cơ thể năm mươi hai tuổi đang lên tiếng phản đối bằng đủ những tiếng khục khặc, răng rắc. Mặt trời đã dần lên cao, ánh sáng lọt vào trong nhà qua tấm rèm đã kéo xuống của cửa sổ phòng ngủ. Buồn cười thay, căn hộ không có mặt Heather lại trở nên tĩnh lặng và u sầu đến lạ. Đi mua sữa. Trên sàn nhà lát gỗ, chiếc đồng hồ báo thức lóe sáng như thể đang nháy mắt với anh, mặt đồng hồ nứt vỡ bên trên hiển thị những kí tự không còn tương ứng với các con số nữa. Hôm nay sẽ là một trong số những ngày như thế. Mà gần đây có rất nhiều ngày như thế. Porter bước ra khỏi căn hộ sau đó chừng mười phút, khoác trên người bộ cánh chỉn chu, đẹp đẽ nhất vốn thường dành để đi lễ vào Chủ nhật - bộ com lê màu xanh hải quân nhàu nhĩ mua ở cửa hàng Men’s Wearhouse từ gần một thập niên trước - rồi đi hết bốn lượt cầu thang để xuống tới khu sảnh chật chội của tòa nhà. Anh dừng lại trước chỗ để hòm thư, lôi điện thoại ra và bấm số điện thoại của vợ. Bạn đã gọi điện tới số điện thoại của Heather Porter. Vì đây là hộp thư thoại nên khả năng rất cao là tôi đã nhìn thấy tên của bạn trong danh sách cuộc gọi, và tôi có thể cam đoan một điều khá chắc chắn là tôi không hề muốn nói chuyện với bạn. Nếu bạn nguyện tâm nguyện ý cống nạp cho tôi bánh sô cô la hay các loại đồ ăn kiêng giàu dinh dưỡng khác, hãy nhắn tin chi tiết cho tôi và tôi sẽ cân nhắc sắp xếp lại vị trí của bạn trong danh sách những người quen biết và có thể sẽ gọi lại cho bạn sau. Nếu bạn là nhân viên kinh doanh đang tính dụ tôi đổi số thì làm ơn từ bỏ ý định luôn và ngay, tôi là của AT&T trong ít nhất một năm nữa rồi. Còn những người khác, xin hãy để lại lời nhắn. Hãy nhớ cho kĩ, chồng yêu của tôi là một chàng cớm nóng nảy, và chàng ta mang súng theo người đấy nhé! Porter mỉm cười. Giọng nói của cô luôn khiến anh mỉm cười. “Này, Button. Anh đây. Nash gọi điện. Có một vụ ở gần công viên Hyde Park. Anh đang xuống đó gặp anh ấy. Anh sẽ gọi lại cho em sau, chừng nào anh biết mấy giờ có thể về nhà.” Anh nói tiếp. “À mà anh nghĩ là đồng hồ báo thức của chúng ta không ổn rồi.” Anh thả điện thoại vào trong túi áo rồi đẩy người bước ra khỏi cánh cửa, những cơn gió lồng lộng của Chicago nhắc anh nhớ mùa thu sắp qua, nhường chỗ cho mùa đông đang tới.   Mời các bạn đón đọc 4MK của tác giả J. D. Barker.
Ván Cờ Đổi Mạng
Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về cuộc đấu tay đôi đến chết của một trò chơi cờ vua vẫn chưa kết thúc trong hơn 50 năm. Khi một doanh nhân người Đức bị phát hiện đã bị bắn chết, một bí ẩn mở ra cho người đọc về sự ganh đua của người đàn ông này với một cầu thủ cờ vua Do Thái xuất chúng và mở ra bí ẩn trong quá khứ của họ. *** Mở đầu quyển sách đúng là một vụ án. Một doanh nhân thành đạt đồng thời cũng là một kỳ thủ có tiếng một thời bị chết. Thi thể ông ta nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung, khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Nhưng các bạn chớ có tìm hung thủ làm gì, cũng đừng trông mong gì những pha đấu trí nghẹt thở hay những cuộc phiêu lưu điều tra phá án của một vị thám tử tài ba mà ta thường thấy trong các tác phẩm trinh thám. Hay tìm thấy những khiếm khuyết trong tâm hồn của các nhân vật bị tổn thương về tâm lý trong các tác phẩm trinh thám mà thiên về tâm lý của tội phạm. Bởi cái chết của ông sẽ đưa bạn trở về một thời kỳ mà mỗi lần nhắc lại người ta không khỏi rùng mình. Thời kỳ mà người ta đã phải thốt lên rằng sao nỡ ăn thịt đồng loại của mình. Cái thời kỳ mà Đức Quốc Xã bài trừ người Do Thái, đưa họ đến những trại tập trung, đày đoạ họ, biến người Do Thái thành trò chơi, trò tiêu khiển, mạng họ trở thành ván cược trong một trò chơi rồi sau đó là những vụ thảm sát hàng loạt đẫm máu. Không chỉ là ván cờ thông thường mà đó là ván cờ cuộc đời, ván cờ đổi mạng. Binh Boog *** Người ta nói rằng cờ vua được sinh ra trong đổ máu. Truyền thuyết kể lại khi trò chơi này lần đầu tiên được ra mắt trước triều đình, nhà vua quyết định thưởng cho người phát minh vô danh của nó bằng cách đáp ứng bất cứ sở nguyện nào của ông ta. Phần thưởng nhà phát minh thỉnh cầu có vẻ thật khiêm nhường: tổng số lượng gạo gộp lại khi đặt một hạt gạo lên ô đầu tiên trong số 64 ô của bàn cờ, rồi hai hạt lên ô thứ hai, bốn hạt lên ô thứ ba, cứ như thế. Thoạt đầu, nhà vua vui vẻ đồng ý, song đến khi nhận ra tất cả các kho lương vựa lúa trong vương quốc của mình, hay có khi cả thế gian, cũng không thể cung ứng đủ lượng gạo như thế, ông ta thấy tốt hơn nên giải thoát cho mình khỏi thế khó bằng cách cho chém đầu người phát minh khốn khổ. Truyền thuyết không nhắc tới chuyện nhà vua sau đó còn phải trả cái giá đắt hơn, ông ta bị trò chơi mới mê hoặc tới mức mất trí. Hóa ra chỉ có sự tham lam của chính trò chơi ấy mới bì kịp lòng tham của người phát minh trong truyền thuyết. Các báo ra hôm nay thuật lại cái chết của một người đàn ông tại một ngôi làng nằm cách Vienna không xa. Hôm qua, sáng Chủ nhật, một người có tên Dieter Frisch chết vì bị bắn. Báo cáo pháp y cho biết thời gian tử vong là khoảng 4 giờ sáng, kết quả của một phát đạn súng ngắn ở cự ly rất gần, viên đạn xuyên qua vòm họng và vọt ra qua thùy chẩm. Bài tường thuật trên báo đi kèm một bức ảnh mới chụp gần đây của người chết, cho thấy ông ta đang thư thái ngoài khu sân vườn ngôi biệt thự của mình như một điền chủ miền quê vừa trở về sau cuốc đi dạo thường ngày. Mặc đồ vải lanh sáng màu, ngồi duỗi trên chiếc ghế đan bằng liễu gai, vẻ như ông ta đang chìa bàn tay ra vuốt ve một trong hai con chó cuộn tròn dưới chân. Tôi đã xem bức ảnh đó và thấy thật khó nhận ra khuôn mặt, vì nó bị chìm dưới bóng cái vành một món đội đầu trông giống mũ Panama nhẹ. Chẳng lẽ diện mạo của một con người chỉ đơn thuần là tổng hòa của hình khối và trọng lượng, là những đường nét của một cấu trúc cơ thịt? Hay còn có thứ gì khác lâu bền hơn, nằm bất biến dưới những lớp thời gian tàn nhẫn? Ẩn dưới cái tên và diện mạo đó có khi nào là người tôi quen biết? Chỉ sau một hồi tập trung, những nét mặt đuợc luu giữ thật sâu trong trí nhớ tôi lại hiện lên, nhu một tấm hình trong suốt áp chồng lên khuôn mặt đã bị thời gian bào mòn song trông vẫn còn trẻ một cách ngoan cường đó. Các hàng tít nói nhiều tới sự ra đi của “nhân vật xuất chúng” này, song không hề nói xem chuyện này xảy ra như thế nào. Dưới sức ép từ gia đình nạn nhân, kiên quyết bác bỏ giả thuyết tự sát, gần nhu tất cả các tờ báo đều nhắc đến một “tai nạn”, “sự cố” hay cái chết trong “tình huống khó hiểu”. Cho dù bằng chứng có là gì đi nữa, nó cũng trở nên vô giá trị khi thiếu vắng một động cơ hợp lý. Tất cả những ai từng biết ông ta dường như đều sẵn sàng thề rằng ông ta hoàn toàn không có bất cứ lý do nào để tự kết liễu đời mình. Ông ta chưa bao giờ bị trầm cảm hay tỏ ra chán đời. Lần kiểm tra cuối cùng, mới gần đây, cho thấy sức khỏe ông ta hoàn toàn bình thường, và ông ta có phom dáng đáng để thèm muốn: ở tuổi sáu mươi tám, ông ta vẫn tích cực chơi các môn thể thao ưa thích, tennis và cưỡi ngựa, dù vẫn hơi tập tễnh kể từ cuộc phẫu thuật sau chấn thương do ngã ngựa. Cũng không hề có bất cứ dấu hiệu nào của rắc rối tài chính. Trên thực tế, chỉ vài ngày trước đó ông ta vừa giành được một hợp đồng xây dựng trị giá nhiều triệu đô la từ Bundesbank. Frisch là một trong những người dường như được vận may mỉm cười trong mọi lĩnh vực. Ông ta kết hôn với một người thừa kế giàu có và có bốn con trai, tất cả giờ đây đều có địa vị nổi bật trong xã hội. Ông ta có một cuộc sống ngăn nắp bình lặng, tuần dành ra bốn ngày ở Munich để điều hành việc làm ăn và quay lại Vienna vào thứ Sáu để được lái xe đưa tới nơi ông ta thích rồi dùng toàn bộ thời gian tự do của mình ở đó: một biệt thự nằm giữa khu tư viên mênh mông, bao quanh là khu săn bắn rộng 125 mẫu. Khu tư viên, được xây dựng từ cuối thế kỷ mười tám, từ lâu đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch, được mở cửa vào mùa hè. Khách tới thăm được phép tham quan trại nuôi ngựa và tản bộ khắp khu đất, một kiệt tác thực thụ về nghệ thuật làm vườn và điều tiết nước, được thiết kế từ hơn một thế kỷ trước. Điểm nhấn là một mê cung đồng tâm được tạo thành từ những hàng rào cây cao ba mét dẫn tới một khoảng trống hình bàn cờ lát những phiến cẩm thạch vuông màu trắng và đen. Ở hai đầu đối diện của bàn cờ, các quân cờ đã được cẩn thận tạo nên bằng cách xén tỉa những cái cây tán rậm cao bằng người thật. Các quân đen được tạo thành từ thủy tùng, quân trắng từ hoàng dương. Như phần lớn những người ở tuổi mình, Frisch sống nề nếp. Một tuần ba ngày ở biệt thự, đúng 7 rưỡi sáng ông ta dậy và dành ra đúng năm phút dưới bể bơi nước lạnh trong nhà, tiếp đó là vài động tác thể dục mềm dẻo và tiến trình chỉnh trang mặc đồ tỉ mẩn như một nghi lễ. Đến khoảng 8 giờ, đã ăn vận chỉnh tề, ông ta sẽ đi xuống phòng ngồi chơi rộng thênh thang dùng bữa sáng thanh đạm được bưng ra trên những món đồ sứ tinh xảo: tách cà phê đen không đường và ít bánh mì nướng làm hoàn toàn từ bột mì cùng xíu mứt cam. Sau đó, ông ta sẽ lui vào phòng làm việc và dành thời gian còn lại của buổi sáng cho niềm đam mê lớn của bản thân, cờ vua. Ông ta sở hữu tất cả sách vở tài liệu về chủ đề này và tự hào về một bộ sưu tập quý giá những bộ cờ vua cổ. Cho dù đã nhiều năm không thi đấu, ông ta vẫn thuộc hàng kiện tướng và là chủ bút của một tạp chí uy tín về cờ vua. Mọi bằng chứng cho phép phỏng đoán là đã không có gì tác động đến thời gian biểu thường quy của ông ta cho tới tối thứ Sáu cuối cùng. Lái xe đến đón ông ta tại nhà ga ở Vienna như thường lệ. Họ chỉ trao đổi với nhau vài lời trên đường quay về biệt thự, và về tới đó lúc nửa đêm - chính xác là 1 giờ 45 phút. (Người lái xe luôn cẩn thận tính toán thời gian chuyến đi.) Frisch ra khỏi xe, và như thường lệ, trước hết đi tới khu chuồng chó, vuốt ve từng con trong số “cún con” của mình, đáp lại màn chào đón hân hoan của chúng. Sau đó ông ta vào nhà. Như tất cả những thứ Sáu khác. Nhưng ngay sáng sớm thứ Bảy bà hầu phòng lớn tuổi đã để ý thấy một điều lạ lùng trong cách cư xử của ông chủ. Frisch trông có vẻ như đã ngủ rất ít và không ngon giấc. Trên thực tế, bà sẵn sàng thề rằng kể cả có lên giường nằm, ông ta cũng không buồn cởi đồ. Vốn quen lấy thời gian biểu thường quy chính xác như đồng hồ của ngôi biệt thự làm niềm khuây khỏa lớn lao nhất, bà này rất lo lắng trước sự thay đổi đột ngột trong thói quen của ông chủ. Tuy nhiên, là một người làm công tận tụy hết lòng, bà cảm thấy ở vị trí của mình bà không nên nói gì với ai, thậm chí cả với những người làm khác. Bà cũng không báo với vợ Frisch, một phần vì vợ chồng ông ta ở các khu khác nhau của biệt thự và trên thực tế là sống đời riêng, chỉ xuất hiện cùng nhau ở những dịp lễ lạt hiếm hoi có tính nghi thức. Theo lời kể của bà hầu phòng, Tiến sĩ Frisch không hề ăn sáng ngày hôm đó, và bữa trưa của ông, được bưng tới vào giờ thường lệ, còn nguyên trên khay không được đụng đến. Ông ta dường như đã trải qua cả ngày một mình trong nhà, không tiếp vị khách nào. Chỉ khi nhân chứng của chúng ta mang bữa tối tới cho ông ta trong phòng làm việc, bà mới để ý thấy một ngọn đèn đã được bật lên. Nó vẫn bật khi bà đi ngủ vào khoảng 2 giờ sáng. Chủ nhật, quá 8 giờ sáng rất lâu mà vẫn chưa thấy bóng dáng Frisch. Lo lắng trước sự chậm trễ khác thường này, bà hầu phòng lên lầu tới phòng ngủ. Thấy trong phòng không có ai, giường chiếu phẳng phiu, thoạt đầu bà nghĩ ông chủ đã ngủ qua đêm ở nơi khác, dù đó không phải là thói quen của ông ta. Bà bắt đầu nghi ngờ khi thấy không thiếu chiếc xe nào trong gara. Sau đó, bà liên tục gõ cửa phòng làm việc, lớn tiếng gọi tên ông chủ. Không thấy ai trả lời, bà quyết định vào trong phòng, nhưng không có ai trong đó. Đến lúc này, bà cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài đánh thức vợ Frisch, một nước đi không phải không có rủi ro, vì bà chủ nhà bị chứng mất ngủ hành hạ và vào thời điểm đó rất có thể đang tận hưởng thời khắc nghỉ ngơi đầu tiên của mình. Toàn bộ người làm nhanh chóng được huy động để tìm kiếm khắp hai mươi tám căn phòng, các hầm, khu dành cho khách, cuộc tìm kiếm được mở rộng ra tận khu tư viên xung quanh nhưng vẫn công cốc. Cuối cùng, một người nghĩ tới chuyện đưa mấy con chó của ông chủ tới. Hai con chó chăn cừu Đức yêu quý của ông ta đã sủa liên tục suốt buổi sáng. Khi con thứ nhất được thả ra, nó lao thẳng tới chỗ mê cung trong vườn; con thứ hai, được tròng dây, lập tức dẫn họ tới nơi. Thi thể Frisch, nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung; khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh, và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm kiếm xem có lời nhắn nào không nhưng vô ích, tất cả những gì họ thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Trong tất cả các tờ báo tường thuật lại hiện trường được những nhân chứng tìm thấy, chỉ có một bài, trên một tờ báo tỉnh lẻ rất có thể thiếu thông tin trực tiếp, là bình luận về chi tiết có vẻ vặt vãnh này. Bài báo kết luận: “Sẽ không ai biết được vì sao Tiến sĩ Frisch lại chọn một mảnh giẻ rách như thế thay vì bộ sưu tập quý giá nổi tiếng của ông. Có lẽ nó chỉ được dùng cho ván đấu cờ cuối cùng của ông, với cái chết.” Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Đổi Mạng của tác giả Paolo Maurensig.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6