Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ

Phía Tây không có gì lạ hoặc Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh (tiếng Đức: Im Westen nichts Neues) là một cuốn tiểu thuyết viết về đề tài chống chiến tranh của Erich Maria Remarque, một cựu binh Đức từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tác phẩm được ra mắt lần đầu vào tháng 11 và 12 năm 1928 trên tờ báo Vossische Zeitung của Đức và in thành sách vào tháng 1 năm 1929. Tác phẩm được viết dưới dạng hồi ký của một người lính Đức kể về cuộc sống chiến đấu và những nỗi kinh hoàng mà anh và các đồng đội trải qua trong các chiến hào tại Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và được xem là một trong số những tác phẩm hay nhất viết về thời kì này. Chỉ trong 18 tháng đầu, tác phẩm đã đạt được thành công vang dội, với 2,5 triệu bản in bằng 25 ngôn ngữ của tác phẩm đã được bán hết. Tiếng vang của cuốn sách mở rộng đến cả hai bên bờ Đại Tây Dương, lôi cuốn nhiều độc giả Đức, Anh, Pháp và Hoa Kỳ.

Thậm chí, có người còn nhìn nhận đây là một cuốn truyện hay nhất mọi thời đại về đề tài phản chiến. Cùng với tiểu thuyết Giã từ vũ khí của nhà văn Hoa Kỳ Ernest Hemingway, "Phía Tây không có gì lạ" cũng có thể được xem như hai bộ tiểu thuyết tiêu biểu nhất về nỗi đau của con người thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1930, tác phẩm trở nên nổi tiếng hơn, khi được chuyển thể thành phim cùng tên do Lewis Milestone làm đạo diễn và giành luôn giải Oscar cùng năm đó. Trong thời kỳ Đức Quốc xã, Adolf Hitler đã cấm tiểu thuyết này, vì ông này xem tác phẩm là một sự "móp méo" hình ảnh của binh lính Đức thời Đại chiến đồng thời Remarque bị đảng quốc xã Đức đả kích dữ dội.

Đến nay, với tình cảm chống chiến tranh của Remarque, thiên truyện này vẫn còn phổ biến và có sức lôi cuốn rộng rãi. Đoạn cuối của truyện, miêu tả về cái chết của nhân vật chính, được xem là những đoạn hấp dẫn nhất của cả tác phẩm. "Phía Tây không có gì lạ" đã đi vào lịch sử văn chương thế giới như một trong những tác phẩm bán chạy nhất của châu Âu vào thế kỷ thứ XX.

Nguồn: dantocking.com

Đăng nhập để đọc

LOLITA
Lolita (1955) là một tiểu thuyết của Vladimir Vladimirovich Nabokov. Tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh và được xuất bản vào năm 1955 ở Paris, sau đó được chính tác giả dịch ra tiếng Nga và được xuất bản vào năm 1967 ở New York. Tiểu thuyết nổi tiếng cả ở phong cách mới lạ lẫn nội dung gây ra các tranh cãi do nhân vật chính của tiểu thuyết tên Humbert Humbert, một người khá lớn tuổi luôn mang trong mình sự ám ảnh về tình dục với một cô gái 12 tuổi tên Dolores Haze. Humbert, nhân vật ngôi số một "tôi", là giáo sư ngành văn chương ở Paris, trạc 35 tuổi và đẹp trai. Tuy sống cùng với vợ nhưng Humbert không hề có hứng thú tình dục với vợ mà luôn thầm tơ tưởng đến những cô gái 12, 13 tuổi để mong tìm lại thiên đường đã mất khi người yêu thời nhỏ của mình là Annabel đã chết vì bệnh hiểm nghèo. Ông ta không hề thấy buồn khi vợ mình bỏ theo một người đàn ông khác, thậm chí còn ngạc nhiên khi vợ mình lại có sức hấp dẫn tới kẻ khác. Sau đó vài năm ông được mời sang Mĩ giảng dạy văn học trong một trường đại học ở New England.Bà chủ nhà trọ chỗ Humbert ở là Charlotte Haze yêu ông ta nhưng ông ta chẳng hề thấy hứng thú gì nơi người đàn bà góa phụ này, ngược lại Humbert lại yêu cô con gái tên là Dolores Haze (mà ông ta gọi là Lolita) mới 12 tuổi của bà ta. Humbert chấp nhận lấy bà chủ nhà để được gần gũi với Lolita. Hàng ngày ông ghi vào nhật ký những cảm xúc dạt dào với đứa con riêng của vợ đang tuổi dậy thì. Rồi có ngày vợ ông lục tủ và phát hiện ra bí mật khủng khiếp trong tâm hồn của chồng được ghi trong cuốn nhật ký. Trong trạng thái hoang mang tột độ, bà vợ bị xe cán chết trên đường ra bưu điện gửi thư cho con gái đang ở trại hè.An táng vợ xong, Humbert đến chỗ Lolita sinh hoạt trại hè để đưa cô đi hết thành phố này đến thành phố khác, những tối tại các nhà nghỉ nơi ông và Lo dừng chân, đó là thiên đường, mà theo ông, là một thiên đường có bầu trời rực lửa của địa ngục, nhưng là một thiên đường đúng nghĩa. Hành trình với những dục cảm tội lỗi ấy đi đến hồi kết khi Lo phải vào viện vì bị nhiễm virus, và sau đó biến mất mà không để lại cho Humbert một lời nào. Nhiều năm tìm kiếm trong vô vọng, Humbert nhận được thư của Lo nói rằng cô đã kết hôn và đang mang thai. Humbert vội vã lao xe đến địa chỉ người gửi thư. Lo giờ đã thay đổi, không còn tươi tắn rực rỡ như trước, nhưng Humbert không quan tâm tới điều đó và vẫn một mực yêu cô. Lo thuật lại những gì đã xảy ra sau đêm ở bệnh viện. Humbert vô cùng xúc động và ngỏ ý muốn Lo chạy trốn cùng ông. Nhưng Lo từ chối. Humbert để lại số tiền $4000 cho Lo rồi bước ra khỏi cửa chính. Ông tìm tới nhà Quilty, người đã dụ dỗ Lo, và giết gã, trong cuộc truy đuổi cuối cùng, ông tạt xe rẽ xuống một cánh đồng nhỏ, nơi những đàn bò sữa đang gặm cỏ, nhìn về xa xăm, "Lo không chỉ vắng bóng bên cạnh tôi, mà cả giọng của em cũng thiếu mất trong bản hòa âm kia" - Humbert hướng tia nhìn về phía trường học đằng xa.Humbert chết do nghẽn động mạch vành trong tù ngày 16 tháng 11 năm 1952. Lolita chết trong khi sinh con vào giáng sinh năm 1952.
CỦA CHUỘT & NGƯỜI - JOHN STEINBECK
Xuất bản năm 1937, giữa thời kỳ Đại suy thoái của nước Mỹ, “Của chuột và người” là một trong những tác phẩm xuất sắc đã góp phần giúp John Steinbeck đoạt giải Nobel Văn học năm 1962. Cuốn sách là bức tranh phản ánh chân thực số phận nghiệt ngã của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội trong cuộc khủng hoảng kinh tế – những người nay đây mai đó, bám víu vào vài hy vọng nhỏ nhoi để tiếp tục sống, tìm một lối thoát giữa cái tuyệt vọng của thời đại.  Xuất bản năm 1937, giữa thời kỳ Đại suy thoái của nước Mỹ, “Của chuột và người” là một trong những tác phẩm xuất sắc đã góp phần giúp John Steinbeck đoạt giải Nobel Văn học năm 1962. Cuốn sách là bức tranh phản ánh chân thực số phận nghiệt ngã của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội trong cuộc khủng hoảng kinh tế – những người nay đây mai đó, bám víu vào vài hy vọng nhỏ nhoi để tiếp tục sống, tìm một lối thoát giữa cái tuyệt vọng của thời đại.  George Milton và Lennie Small là 2 kẻ làm công của một trang trại lúa mì. George nhỏ bé, thông minh nhanh nhạy, có chí tiến thủ và làm việc vì một mục đích rõ ràng. Lennie to lớn, khỏe như vâm, không ai địch nổi, nhưng lại là đứa trẻ khù khờ, trí tuệ chậm phát triển, vâng lời như một con cừu non, có sở thích vuốt ve những thứ mềm mềm (kể cả con chuột chết), và đặc biệt là lúc mất kiểm soát thường bộc lộ sức mạnh một cách bản năng mà không ý thức được (đó cũng chính là nguồn gốc của những bi kịch sau này). George và Lennie, cũng như những người thời ấy, đều có chung ước mơ về một mảnh đất tự mình canh tác trồng trọt, một cuộc sống do mình làm chủ, không phải vất vả phục dịch cho người khác. Truyện mở đầu ở bờ sông Salinas bằng gam màu tươi sáng, khi George say sưa kể cho Lennie nghe về cái viễn cảnh đẹp đẽ mà cả hai vẫn hằng mong mỏi: một căn nhà nhỏ có khu vườn trồng đủ loại hoa màu, những con thỏ xinh đẹp mà Lennie ưa thích, những ngày tháng tự do tự tại không còn áp bức từ bất kỳ ai. Và truyện kết thúc, cũng ở bờ sông Salinas, nhưng trong cái đen tối và bi thảm, trong sự hoang tàn của một giấc mơ đẹp đã đổ nát, buộc người ta phải quay lại cái xã hội nghiệt ngã không có chỗ cho mình.  George Milton và Lennie Small là 2 kẻ làm công của một trang trại lúa mì. George nhỏ bé, thông minh nhanh nhạy, có chí tiến thủ và làm việc vì một mục đích rõ ràng. Lennie to lớn, khỏe như vâm, không ai địch nổi, nhưng lại là đứa trẻ khù khờ, trí tuệ chậm phát triển, vâng lời như một con cừu non, có sở thích vuốt ve những thứ mềm mềm (kể cả con chuột chết), và đặc biệt là lúc mất kiểm soát thường bộc lộ sức mạnh một cách bản năng mà không ý thức được (đó cũng chính là nguồn gốc của những bi kịch sau này). George và Lennie, cũng như những người thời ấy, đều có chung ước mơ về một mảnh đất tự mình canh tác trồng trọt, một cuộc sống do mình làm chủ, không phải vất vả phục dịch cho người khác. Truyện mở đầu ở bờ sông Salinas bằng gam màu tươi sáng, khi George say sưa kể cho Lennie nghe về cái viễn cảnh đẹp đẽ mà cả hai vẫn hằng mong mỏi: một căn nhà nhỏ có khu vườn trồng đủ loại hoa màu, những con thỏ xinh đẹp mà Lennie ưa thích, những ngày tháng tự do tự tại không còn áp bức từ bất kỳ ai. Và truyện kết thúc, cũng ở bờ sông Salinas, nhưng trong cái đen tối và bi thảm, trong sự hoang tàn của một giấc mơ đẹp đã đổ nát, buộc người ta phải quay lại cái xã hội nghiệt ngã không có chỗ cho mình. ‘Của chuột và người’ là bức tranh tả thực bối cảnh xã hội Mỹ trong cơn khủng hoảng kinh tế năm 1937. Ở thời kỳ đó, những người lao động chân tay, đặc biệt là công nhân làm thuê làm mướn trong trang trại, thường không có gia đình, không nhà cửa đất đai, chỉ có thể chuyển từ nông trại này qua nông trại khác để kiếm sống, suốt đời làm việc cực nhọc, chịu đựng những luật lệ hà khắc cùng nỗi lo sợ bị đuổi việc khi không dùng được nữa. Chi tiết ông già Candy quyết liệt phản đối những công nhân khác bắn chết con chó đã theo mình nhiều năm vì “nó già quá rồi, không còn tích sự gì nữa” chính là điển hình của bi kịch này. Không chỉ vì Candy tiếc con vật trung thành đã cống hiến cho trang trại khi nó còn trẻ trung khỏe mạnh, mà còn vì ông lo sợ, rằng sau này mình không còn làm việc được nữa, người ta cũng sẽ đòi giết ông như giết một con chó. Trong một xã hội như vậy, giá trị của những người lao động chân chính thật rẻ mạt. Không còn khả năng làm việc là không còn giá trị và bị đào thải là điều tất yếu. ‘Của chuột và người’ là bức tranh tả thực bối cảnh xã hội Mỹ trong cơn khủng hoảng kinh tế năm 1937. Ở thời kỳ đó, những người lao động chân tay, đặc biệt là công nhân làm thuê làm mướn trong trang trại, thường không có gia đình, không nhà cửa đất đai, chỉ có thể chuyển từ nông trại này qua nông trại khác để kiếm sống, suốt đời làm việc cực nhọc, chịu đựng những luật lệ hà khắc cùng nỗi lo sợ bị đuổi việc khi không dùng được nữa. Chi tiết ông già Candy quyết liệt phản đối những công nhân khác bắn chết con chó đã theo mình nhiều năm vì “nó già quá rồi, không còn tích sự gì nữa” chính là điển hình của bi kịch này. Không chỉ vì Candy tiếc con vật trung thành đã cống hiến cho trang trại khi nó còn trẻ trung khỏe mạnh, mà còn vì ông lo sợ, rằng sau này mình không còn làm việc được nữa, người ta cũng sẽ đòi giết ông như giết một con chó. Trong một xã hội như vậy, giá trị của những người lao động chân chính thật rẻ mạt. Không còn khả năng làm việc là không còn giá trị và bị đào thải là điều tất yếu.
451 ĐỘ F
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó.Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai.Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử.Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp.Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm. Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại.Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”. Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy.Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta.***Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6