Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Tôm - Thakazhi Sivasankara Pillai

Mùa Tôm là câu chuyện diên ra ở một làng chài phương Nam, rất gần làng Thakazhi của tác giả, được Pillai thể hiện tài tình từ thiên nhiên đến con người qau một tình yêu bi kịch, một bi kịch đạt đến tầm u huyền bi thiết nhất. Đó là tình yêu của Karuthamma, cô con gái của một ngư phủ Hindu đầy tham vọng và Parikutti, con trai của một thương buôn tôm cá Hồi Giáo. Tôn giáo, tập quán, niềm tin truyền thống, tiền bạc và cả nữ thần Biển Kadalamma khó tính dễ cuồng nộ bắt đầu thổi qua tình yêu đầu đời của họ. Có thể nhìn thấy bi kịch ngay từ ban sơ và biết rõ thảm họa sẽ không buông tha họ cho dù nó trì hoãn tới đâu... Ngòi bút Pillai lướt nhanh, dường như nhẹ nhàng nữa nhưng tràn đầy khí lực, ngôn ngữ như dậy vang tiếng bi thương của đời, của đêm tối, biển khơi và giông tố. Tác giả Thakazhi Sivasankara Pillai đã có hàng loạt các tiểu thuyết truyện ngắn đã góp phần làm cho nền văn chương Ấn Độ ngang tầm vói nhiều lãnh thổ lớn của văn học thế giới hiện đại. *** Pillai (Thakazhi Sivasankara Pillai: 1912 - 1999) là trưởng lão của văn chương xứ Kerala, Ấn Độ với các tác phẩm viết bằng ngôn ngữ Malayalam. Hàng loạt tiểu thuyết và hơn 600 truyện ngắn của Pillai đã góp phần làm cho nền văn chương ấy ngang tầm với nhiều lãnh thổ lớn của văn học thế giới hiện đại. Pillai chiếm hàng loạt giải thưởng văn học lớn cũng như nhiều bằng tiến sĩ danh dự. o O o Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Mùa tôm (Chemmeen) đoạt giải thưởng của Viện Hàn lâm Ấn Độ (Sahitya Akademi) vào năm 1957, đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới và được chuyển thể thành phim trong 15 xứ. Câu chuyện trong Mùa tôm diễn ra ở một làng chài phương Nam, rất gần làng Thakazhi của tác giả, được Pilllai thể hiện tài tình từ thiên nhiên đến con người qua một tình yêu bi kịch, một bi kịch đạt đến tầm u huyền bi thiết nhất. Đó là tình yêu của Karuthamma, cô con gái của một ngư phủ Hindu đầy tham vọng và Parikutti, con trai của một thương buôn tôm cá Hồi giáo. Tôn giáo, tập quán, niềm tin truyền thống tiền bạc và cả Nữ Thần Biển Kadakimma khó tính dễ cuồng nộ bắt đầu thổi qua tình yêu đầu đời của họ. Có thể nhìn thấy bi kịch ngay từ ban sơ và biết rõ thảm họa sẽ không buông tha họ cho dù nó trì hoãn đến đâu. Cuối cùng họ gặp nhau trên bờ biển, trong giông tố nộ cuồng để hoàn tất bi kịch của mình. Ngòi bút Pillai lướt nhanh, dường như nhẹ nhàng nữa nhưng tràn đầy khí lực, ngôn ngữ như dậy vang tiếng bi thương của đời, của đêm tối, biển khơi và giông tố. *** Trong nền văn học Ấn Độ thế kỷ 20, các tác giả càng ngày càng muốn nắm bắt và thể hiện được cuộc sống trong dạng chân chất, nguyên khai của nó, không thỏa mãn với các miêu tả đầy lãng mạn và huyền bí, cũng như không chỉ thu hẹp vào thế giới tinh thần mang đậm màu sắc tôn giáo của con người, như trong những tác phẩm viết về Ấn Độ thế kỷ 19. Trong số các tác giả có nhiều cách tân, Thakazhi Sivasankara Pillai là một ngòi bút có nhiều đóng góp xuất sắc. Ông sinh ngày 17/4/1914 tại làng Thakagi, bang Kerala, một trong nhưng bang nghèo bậc nhất ở Ấn Độ, nhưng lại có truyền thống lâu đời về văn hóa - nền văn hóa Malayalam. Thiên nhiên ở miền nam Ấn Độ này hết sức khắc nghiệt, cộng với một bối cảnh xã hội còn chịu ảnh hưởng nặng nề của đời sống đẳng cấp đã khiến đời sống người dân nghèo luôn luôn đứng trước những xung đột, tai họa, bất công. Thakagi Pillai có ý thức rõ rệt muốn góp một tiếng nói, một cách nhìn xây dựng vào thực tế xã hội của quê hương mình. Từ bút pháp lãng mạn thời kỳ đầu, ông chuyển sang bút pháp hiện thực. Năm 1942, ông sáng lập Liên đoàn các nhà văn tiến bộ bang Kerala. Từ những tác phẩm thời trẻ (Hoa mới nở, 1934), (Những câu chuyện Thakagi, 1938), Pillai đã dũng cảm đứng về phía người nghèo, phê phán những bất công xã hội. Trong nhiều truyện dài của ông, nhân vật chính thường là những con người lao động, xuất thân từ những đẳng cấp thấp, luôn phải hứng chịu những thử thách khốc liệt của cuộc sống (như trong Cái đầu lâu,1947), (Con trai người quét rác, 1948), tiểu thuyết Hai vốc cơm, 1949 miêu tả đời sống những người cố nông cùng cực nhất ở một vùng đồng lầy. Tiểu thuyết Mùa tôm (1956) viết về tình yêu khác đẳng cấp và tín ngưỡng ở một vùng dân chài, đã đem lại vinh quang cho Pillai, được giải thưởng của Viện hàn lâm văn học Ấn Độ, do thổng thống Ấn Độ trao tặng (năm 1957) Giải thưởng căn học cao nhất của Ấn Độ. Tuy chứa đựng một vài yếu tố tôn giáo, tự nhiên chủ nghĩa, nhưng nói chung tác giả đã thành công trong việc kết hợp khéo léo chủ nghĩa hiện thực phê phán với bút pháp trữ tình uyển chuyển. Đời sống vật lộn khắc nghiệt hàng ngày của người lao động tại một làng chài Ấn Độ hiện lên rất sáng rõ trong bối cảnh thiên nhiên nghiệt ngã, giữa những hàng rào vô hình mà tai ác, ngăn cách những con người ở những đẳng cấp xã hội và tính ngưỡng khác nhau, dẫn đến kết cục thật bi thảm. Có lẽ chính do cách đặt vấn đề không khoan nhượng này, mà cuốn sách từ khi ra đời đã được bàn cãi sôi nổi, đã được in đi in lại mười bốn lần, trở thành một sự kiện trong đời sống văn học Ấn Độ những năm 50-60. Giới thiệu Pillai với bạn đọc Việt Nam, chúng tôi muốn giới thiệu một tác giả đã góp phần quyết định vào sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong nền văn học mới của Ấn Độ, một ngòi bút giàu lương tri, nhân ái, suốt đời chiến đấu cho sự đổi mới và tiến bộ xã hội, dũng cảm bênh vực những khát vọng của con người ở dưới đáy xã hội, và luôn kêu gọi họ hợp lực lại đấu tranh cho một cuộc sống thật xứng đáng với con người.   Mời các bạn đón đọc Mùa Tôm của tác giả Thakazhi Sivasankara Pillai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Tình Yêu Trở Lại - Rachel Gibson
Một cuốn truyện tình yêu cảm động về những đấu tranh buông bỏ hay níu giữ tình yêu sau bao năm tưởng có thể quên lại dường như trở lại.... *** Anh ấy không yêu tôi Daisy Lee Monroe cho rằng mình đã dứt bỏ được Lovette, Texas từ nhiều năm về trước, nhưng khi trở lại quê nhà, cô nhận ra mọi thứ chẳng thay đổi gì mấy. Em gái cô vẫn suy nghĩ thiếu sáng suốt, sân trước nhà mẹ cô vẫn còn những con hồng hạc nhựa màu hồng. Và Jackson Lamott Parrish, anh chàng xấu xa mà cô từng bỏ lại sau lưng, vẫn quyến rũ đến chết người. Chẳng có gì làm cô thấy dễ chịu hơn là tránh xa người này, nhưng cô không thể. Daisy có chuyện muốn nói với Jackson, và cô sẽ chẳng đi đâu hết cho đến khi anh chịu lắng nghe cô nói. Jackson từng nhận được một bài học cay đắng về Daisy, và giờ đây từ duy nhất anh muốn nghe từ đôi môi đỏ mọng của Daisy là: tạm biệt. Nhưng cô xuất hiện ở khắp mọi nơi, và anh không tin đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Có vẻ như cách duy nhất để buộc cô im miệng là hôn cô, nhưng trước đây, việc hôn Daisy từng khiến anh thảm hại vô cùng. Hiện tại, liệu anh có đủ mạnh mẽ để cưỡng lại sức hút của cô không? Có đủ cứng rắn đứng nhìn cô bước ra khỏi đời mình một lần nữa không? Có đủ kiên quyết để cô giữ cô ở lại bên anh? Một cuốn truyện hấp dẫn những ai đang băn khoăn tìm hiểu những cảm xúc nằm ngoài lí trí của tình yêu. *** Bộ sách Lovett Texas, gồm có:  Daisy's Back in Town - Tình Yêu Trở Lại Crazy on you - Yêu Em Cuồng Si Rescue Me - Hãy Cứu Em I Do! *** Hơi nóng lượn lờ trên mặt bê tông khi chiếc ’63[1] Thunderbird lướt ra từ trong bóng tối của xưởng xe. Động cơ V8 và bộ chế hòa khí Holley hai ống xả rên lên như một người đàn bà thỏa mãn, đầy ấm áp, gợi cảm, với chất giọng khàn khàn. Ánh mặt trời Texas nóng rực tạo ra cả trăm đốm sáng nho nhỏ trong vành bánh xe, lướt dọc mạn xe làm từ crôm và rót ánh sáng xuống nước sơn đen bóng loáng. Chủ chiếc xe nhìn nó lăn bánh về phía mình và mỉm cười tán thưởng. Vài tháng trước, chiếc Sports Roadster này chẳng hơn gì nhà của lũ chuột. Giờ đây, khi đã được khôi phục trọn vẹn vẻ rực rỡ xưa kia, nó đẹp chói lọi – gợi nhớ lại quãng thời gian mà dân cư Detroit có hứng thú với khả năng đạt tốc độ chín mươi ki-lô-mét trong tám giây hơn là số ki-lô-mét đi được trên mỗi gallon, những tính năng bảo đảm an toàn, hay chỗ đặt đồ đựng cốc. Jackson Lamott Parrish ngồi trong chiếc T-bird[2] có đồ nội thất bằng da thuộc màu đỏ, một cổ tay vắt lên vô lăng màu đỏ. Ánh nắng chiếu vào mái tóc nâu dày và nếp nhăn hình thành trên hai khóe đôi mắt màu xanh lục khi anh hạ mi mắt xuống trước ánh nắng chói chang. Anh rồ máy lần cuối, rời tay khỏi vô lăng và kéo phanh xe. Anh đẩy cửa xe và đặt đế đôi bốt cao bồi xuống vỉa hè. Bằng một động tác uyển chuyển, anh đứng dậy và chủ của chiếc Roadster vừa được tân trang bước lên trước đưa anh một tấm séc. Jack liếc nhìn nó, để ý thấy mọi số không đã ở đúng chỗ, đoạn gấp đôi nó lại, nhét vào túi áo sơ mi trắng trước ngực. “Tận hưởng nhé,” anh nói, rồi xoay người đi vào cửa hàng. Anh đi qua một chiếc ‘Cuda 440-6 từ năm một chín bảy mươi, động cơ Hemi khổng lồ của nó treo lơ lửng trên một cái cần cẩu. Qua tiếng máy nén khí và các thiết bị có động cơ, em trai của Jack, Billy, gọi một thợ cơ khí từ dưới một chiếc ‘59 Dodge Custom Royal Lancer. Ngày mai, khoảng trống vừa được chiếc T-bird bỏ lại sẽ được anh lấp đầy bằng một chiếc Corvette một chín năm tư. Cỗ xe thể thao cổ điển ấy được tìm thấy trong một xưởng xe ọp ẹp ở Nam California, và ba ngày trước Jack đã bay tới đó để xem xét chiếc xe. Khi anh phát hiện ra là nó mới chỉ đi được sáu mươi tư nghìn ki-lô-mét và mọi con số đều phù hợp, anh mua nó với giá tám nghìn đô ngay tại chỗ. Một khi đã được khôi phục hoàn toàn, chiếc Vette này sẽ mang lại gấp mười lần con số đó. Về việc khôi phục xe ô-tô cổ, công ty xe Mỹ cổ Parrish là số một. Ai cũng biết điều đó. Những chiếc ô-tô “cơ bắp”[3] nổ đinh tai nhức óc, chạy rầm rầm trên đường đã ăn sâu trong máu đàn ông nhà Parrish. Từ khi bước những bước chân đầu tiên, Jack và Billy đã làm việc trong xưởng xe của cha mình. Họ đã tháo động cơ đầu tiên trước cả khi mọc lông vùng kín. Họ có thể phân biệt một chiếc 260 V8 với một chiếc 289 kể cả khi nhắm mắt và lắp lại máy phun xăng trong khi ngủ. Là những đứa con kiêu hãnh của Lovett, Texas, dân số mười chín nghìn ba trăm, các chàng trai nhà Parrish đã trưởng thành cùng tình yêu bóng đá, bia lạnh, và phá vỡ nhựa đường trên những con đường rộng bằng phẳng – thường là cùng lúc có một cô nàng tóc xù bông lả lơi nào đó tô lại son môi bằng gương chiếu hậu. Hai chàng trai được nuôi lớn trong một ngôi nhà ba phòng ngủ sau xưởng xe. Giờ thì cửa hàng ban đầu không còn nữa. Bị dỡ xuống và thay thế bằng một không gian lớn hơn, hiện đại hơn, chia làm tám khu nhà để xe. Khoảnh sân sau xưởng xe đã được dọn dẹp. Những cỗ xe cũ kỹ và những bộ phận bỏ đi bị kéo đi từ lâu lắm rồi. Dù vậy, căn nhà vẫn như xưa. Vẫn những khóm hoa hồng mà mẹ họ đã trồng, vẫn có những khoanh đất và cỏ dưới tán cây du cao chót vót. Vẫn hiên nhà bằng bê tông và cánh cửa kính cần kha khá WD-40[4]. Căn nhà mới được khoác một lớp sơn mới, cả trong lẫn ngoài. Vẫn màu trắng như trước. Sự khác biệt thật sự duy nhất là giờ Jack sống ở đây một mình. Bảy năm trước, Billy cưới Rhonda Valencia và vui vẻ từ bỏ lối sống phóng túng trước sự sung sướng của những người trong vùng. Trong trí nhớ của tất cả mọi người trong thị trấn, Jack chưa bao giờ nảy sinh ý muốn từ bỏ cái lối sống phóng túng ấy. Theo những gì họ biết, anh chưa từng gặp một người phụ nữ khiến anh muốn có cuộc sống một-một. Trọn đời. Nhưng họ không biết hết mọi chuyện. Jack đi vào văn phòng của mình ở cuối xưởng xe và đóng cửa lại. Anh nhét tấm séc vào một ngăn bàn và kéo ghế ra. Trước khi mua chiếc ’54 Corvette, anh đã tìm kiếm lịch sử của nó rồi bay tới California để kiểm tra nó nhằm bảo đảm rằng không có hư hỏng nghiêm trọng nào trong toàn bộ cấu trúc của cỗ xe. Việc tìm kiếm lịch sử một cỗ xe, tìm những bộ phận thay thế rồi khôi phục nó thôi thúc và thu hút anh cho tới khi cỗ xe hoàn hảo trở lại. Đã được sửa chữa. Tốt hơn. Hoàn thiện. Penny Kribs, thư ký của Jack, đi vào văn phòng và đưa anh thư từ trong ngày. “Em sắp về để đi làm tóc đấy nhé,” cô nhắc anh. Jack ngước lên nhìn mớ tóc đen lưa thưa trên đầu Penny. Anh đã học cả mười hai năm cùng Penny, và anh cũng chơi cùng đội bóng bầu dục với chồng cô, Leon. Anh đứng dậy và đặt thư lên bàn. “Em sắp làm đẹp vì anh à?” Cô đeo nhẫn ở hầu hết các ngón tay và có bộ móng dài màu hồng trông như móng vuốt. Anh thường tự hỏi làm sao cô gõ máy tính mà không ấn nhầm phím khác hay bôi được chừng ấy mascara mà không chọc mù con mắt nào. Anh thậm chí còn không muốn nghĩ đến cảnh cô ôm tay vào thằng bé của Leon nữa. Ý nghĩ ấy làm anh rợn sống lưng. “Tất nhiên,” cô nói với một nụ cười. “Anh biết là anh lúc nào cũng là mối tình đầu của em mà.” Phải rồi, anh biết. Năm lớp ba, Penny đã bảo anh rằng cô yêu anh rồi đá vào cẳng chân anh bằng đôi giày da màu đen của cô. Anh luôn thấy rằng mình không cần thứ yêu thương đó. “Đừng nói với Leon nhé.” “À, anh ấy biết mà.” Cô vẫy tay rồi đi ra cửa, mùi nước hoa vương vất lại sau lưng. “Anh ấy cũng biết là em sẽ chẳng bao giờ dính dáng gì đến anh.” Jack khoanh tay trên ngực và tựa người vào mép bàn. “Vì sao chứ?” “Bởi vì anh đối xử với phụ nữ như người mắc chứng biếng ăn đối xử với kẹo Whitman Sampler. Anh nhấm nháp chỗ này một chút, chỗ nọ một chút. Có lẽ anh sẽ cắn vài miếng, nhưng anh không bao giờ ăn toàn bộ.” Jack bật cười. “Anh nghĩ có vài phụ nữ có thể thay đổi suy nghĩ đó của em.” Penny không thấy thú vị. “Anh hiểu ý em mà,” cô nói qua vai khi bước ra khỏi cửa. Phải rồi, anh hiểu ý cô. Như đa số phụ nữ, Penny nghĩ anh nên kết hôn, nuôi dạy con cái và lái một chiếc SUV. Nhưng theo Jack, anh thấy em trai mình đã đảm trách nghĩa vụ đó hộ phần cả hai người họ rồi. Billy có ba cô con gái ở độ tuổi từ sáu tháng tới năm tuổi. Họ sống trong một con phố cụt với một cái xích đu ở sân sau, và Rhonda lái một chiếc Tahoe, một sự lựa chọn khác của các bà mẹ ưa thể thao ở mọi nơi. Với từng ấy cô cháu gái, Jack thấy mình không cần phải mang thêm một đứa Parrish khác vào thế giới này. Anh là “bác Jack,” và anh thấy ổn thỏa với điều đó. Anh quay lại ghế và mở khuy cổ tay áo ra. Anh xắn ống tay áo lên bắp tay, sau đó quay về làm việc. Hôm nay là thứ Sáu và anh có cả núi việc phải xử lý xong trên bàn trước khi có thể bắt đầu những ngày cuối tuần của mình. Lúc năm giờ, Billy mở cửa để bảo anh rằng cậu sắp về nhà. Jack liếc nhìn chiếc đồng hồ Buick Riviera đặt cạnh màn hình máy tính. Em trai anh mới ở chỗ làm có ba tiếng mười lăm phút. “Em sẽ đến trận T-ball[5] của Amy Lynn,” Billy nhắc đến cô con gái năm tuổi của mình. “Anh sẽ đến công viên chứ?” Amy Lynn là con gái lớn của Billy và Jack cố gắng đến trận đấu của con bé mỗi khi có thể. “Không phải tối nay,” anh trả lời và ném bút lên bàn. “Tối nay có bữa tiệc độc thân của Jimmy Calhoun ở quán The Road Kill,” anh nói. Mãi đến gần đây, Jimmy vẫn là một gã thích chè chén. Giờ đây cậu ta sắp sửa từ bỏ tự do của mình vì hai chiếc nhẫn đôi. “Anh đã bảo cậu ta là anh sẽ ghé qua một lát.” Billy mỉm cười. “Sẽ có vũ công thoát y chứ?” “Anh cho là có.” “Đừng nói với em là anh thích xem phụ nữ cởi truồng hơn là một trận T-ball nhé?” Nụ cười toe toét của Jack giống hệt em trai mình. “Phải rồi, đó là một lựa chọn khó khăn. Xem phụ nữ cởi đồ hay là nhìn lũ nhóc năm tuổi chạy quanh các gôn với mũ bảo hiểm đội ngược.” Billy bật cười, theo một kiểu đặc biệt của riêng cậu với đầu ngả ra sau và phát ra vài tiếng hơ-hơ-hơ. Điệu cười đó giống cha họ, Ray, đến mức Jack cho rằng nó phải do gen di truyền. “Đồ may mắn,” Billy nói, nhưng không mấy thật lòng. Cả hai người họ đều biết rằng Bill thích xem Amy Lynn chạy vòng vòng với mũ bảo hiểm đội ngược hơn. “Nếu anh cần người lái xe đưa anh về từ quán The Road Kill,” Bill nói thêm trên đường ra cửa, “thì hãy gọi em nhé.” “Tất nhiên.” Một người lái xe say xỉn đã cướp đi mạng sống của cha mẹ họ khi Jack mới mười tám tuổi. Hai anh em quyết tâm là họ sẽ không bao giờ lái xe khi say. Jack làm việc thêm một tiếng nữa trước khi tắt máy và ra khỏi xưởng xe qua lối các khu chứa xe. Những người khác đã ra về, và tiếng đế giày của anh vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch. Anh khóa cửa, bật chuông báo động rồi nhảy vào chiếc Shelby Mustang. Trời bắt đầu mưa khi anh lái xe về phía ngoại ô Lovett. Vài hạt mưa lưa thưa hòa lẫn cùng bụi và gió, biến màu đen bóng loáng của chiếc xe thành một màu xám mờ xỉn. Quán The Road Kill rất giống các quán bar khác rải rác khắp vùng cán xoong Texas. Nhạc đồng quê phát ra từ máy hát tự động trong khi các khách quen nốc cạn những vại bia Lone Star. Một tấm bảng ĐỪNG GÂY SỰ VỚI DÂN TEXAS màu đỏ-trắng-và-xanh treo trên tấm gương sau quầy bar, trong khi các tấm biển báo giao thông cũ, tatu[6] và rắn chuông nhồi bông trang trí trên tường. Chủ quầy bar cũng đồng thời là một người nhồi bông thú, và nếu một vị khách quá tha thiết, hay đã đủ say, anh ta hoặc cô ta có thể mua một cái thắt lưng rắn chuông hoặc một cái túi bằng da tatu cực kỳ hấp dẫn với mức giá ưu đãi. Khi Jack đi vào quán bar, anh đẩy vành mũ Stetson của mình lên và dừng lại ở ngưỡng cửa đủ lâu để mắt kịp thích nghi trước khi tiến lại quầy bar. Anh chào hỏi vài câu với vài vị khách quen. Xen giữa tiếng Clint Black trong hộp nhạc tự động, anh có thể nghe thấy tiếng bữa tiệc độc thân của Jimmy đang lên đến cao trào ở phòng sau. “Một chai Lone Star,” anh gọi. Một chai bia xuất hiện trên quầy bar và anh đưa ra tờ năm đô. Anh cảm nhận được một bàn tay mềm mại đặt trên cánh tay mình và quay sang nhìn vào khuôn mặt của Gina Brown. “Chào Jack.” “Chào Gina.” Gina cùng tuổi với Jack và đã ly dị hai lần. Cô là một cô gái miền Texas cao ráo, mảnh dẻ thích cưỡi bò máy ở quán Slim Clem’s gần đường cao tốc 70. Cô ta mặc quần bò Wranglers thật bó, áo Justins thật ôm, và tóc nhuộm đỏ. Jack biết cô nhuộm tóc bởi vì cô ta cũng thích trèo lên người anh. Nhưng dạo gần đây có dấu hiệu cho thấy cô ta đang tính toán cưới anh làm chồng ba. Anh đã phải làm nguội mọi chuyện để cô ta bỏ ngay cái ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. “Anh đến tham dự buổi tiệc độc thân ở phía sau kia à?” Cô chăm chú nhìn anh qua khóe đôi mắt xanh dương. Anh có mù mới không nhận thấy lời mời mọc đang uốn cong đôi môi cô ta. “Phải.” Jack đưa chai bia lên môi và hớp một ngụm lớn. Anh không có hứng thú hâm nóng lại mọi chuyện. Anh thích Gina, nhưng anh không thuộc tuýp làm chồng. Anh lấy tiền thừa từ quầy bar và nhét vào túi trước quần jeans. “Gặp em sau nhé,” anh nói và quay người bỏ đi. Câu hỏi tiếp theo của Gina làm anh dừng ngay lại. “Anh đã gặp Daisy Lee chưa?” Jack hạ chai bia xuống và đột nhiên thấy khó mà nuốt nốt chỗ bia trong miệng xuống được. Anh quay lại nhìn Gina. “Sáng nay em đã gặp cô ta ở trạm xăng Texaco. Đổ xăng cho chiếc Cadillac của mẹ cô ta.” Gina lắc đầu. “Em nghĩ đã bao lâu nhỉ, tầm mười hoặc mười hai năm kể từ lần cuối cô ta ở trong thị trấn phải không?” Là mười lăm năm. “Em nhận ra cô ta ngay lập tức. Daisy Lee Brooks không thay đổi nhiều lắm.” Chỉ là bây giờ Daisy Brooks là Daisy Monroe và đã là như vậy trong mười lăm năm qua. Và điều đó đã thay đổi tất cả. Gina bước lại gần một bước và đùa nghịch một khuy áo của anh. “Em rất buồn khi nghe chuyện của Steven. Em biết anh ấy là bạn anh.” Anh và Steven Monroe đã gần như không thể tách rời từ lúc lên năm khi họ ngồi cạnh nhau ở nhà thờ Tin Lành Baptist của Lovett, hét to “Phải, Chúa yêu con.” Nhưng điều đó cũng đã thay đổi. Lần cuối cùng anh gặp Steven là buổi tối hai bọn họ đánh nhau đến chảy máu, trong khi Daisy kinh hãi nhìn vào. Đó cũng là lần cuối cùng anh gặp Daisy. Như thể không nhận thấy Jack không hề mở miệng nói chuyện, Gina tiếp tục lải nhải, “Em không tưởng tượng nổi cảnh chết ở tuổi của chúng ta. Nó quá đỗi khủng khiếp.” “Thứ lỗi cho anh nhé, Gina,” anh nói và bỏ đi. Một cơn tức giận xưa cũ, cơn tức giận mà anh cứ nghĩ là mình đã chôn vùi, đang chực kéo anh vào quá khứ. Anh lại xô nó thật mạnh, đập mạnh nó xuống, và gạt bỏ nó. Sau đó anh chẳng cảm thấy gì nữa. Cầm chai bia trong tay, anh luồn lách qua quán bar đang nhanh chóng chật kín và đi tới căn phòng đông đúc ở cuối. Anh dựa vai vào khung cửa và chuyển toàn bộ sự chú ý vào Jimmy Calhound. Tiêu điểm của bữa tiệc đang ngồi trên một cái ghế ở giữa phòng, vây quanh bởi cả tá đàn ông, tất cả đang nhìn hai phụ nữ ăn mặc như nữ hoàng chăn bò ép chặt vào nhau trong khi Dixie Chicks hát về một cỗ xe tội lỗi. Đã thoát y đến tận cái quần lọt khe lấp lánh, hai cô gái mở khuy áo cánh lụa của mình ra. Áo họ đồng thời trượt xuống hai bả vai rám nắng và cơ thể hoàn hảo, để lộ hai bộ ngực bự nhồi trong áo bikini đính đá lấp lánh. Jack rời mắt khỏi bộ ngực đầy đặn, nhìn xuống hai chiếc quần lọt khe buộc dây ở hông họ. Marvin Ferrell dừng lại cạnh anh ở ngưỡng cửa để quan sát màn biểu diễn. “Cậu nghĩ hai bộ ngực kia có phải đồ thật không?” anh ta hỏi. Jack nhún một bên vai và đưa chai bia lên môi. Rõ ràng là Marvin đã kết hôn quá lâu, bởi vì giọng anh ta bắt đầu giống đàn bà rồi. “Ai quan tâm chứ?” “Đúng vậy.” Marvin cười. “Cậu đã nghe tin Daisy Brooks quay lại chưa?” Qua chai bia, anh nhìn xuống Marvin rồi hạ chai xuống. “Có, tớ đã nghe rồi.” Anh lại cảm nhận được cơn tức giận ngày xưa, và một lần nữa anh lại đập nó xuống cho tới khi không cảm thấy gì nữa. Anh tiếp tục chú ý vào các vũ công thoát y và nhìn họ kẹp Jimmy giữa hai cơ thể bán khỏa thân của mình trong khi hôn nhau trên đầu anh ta. Nụ hôn ướt át đó khiến cánh đàn ông hò reo đòi thêm. Jack nghiêng đầu sang một bên và mỉm cười. Trò này trở nên hay ho rồi đây. “Tớ đã gặp Daisy ở siêu thị Minute,” Marvin nói tiếp. “Chết tiệt, cô ấy vẫn nóng bỏng như hồi cấp ba.” Nụ cười của Jack tắt ngóm khi một ký ức không mời về đôi mắt nâu và đôi môi hồng mềm mại chực chờ kéo anh vào hố đen quá khứ. “Còn nhớ cô ấy trông thế nào trong bộ đồ cổ động cũn cỡn không?” Jack rời người khỏi cửa và đi sâu hơn vào phòng, nhưng anh không thể thoát được. Có vẻ như mọi người đều muốn một chuyến du hành trên con đường ký ức. Tất cả, trừ anh. Trong khi hai cô nàng vũ nữ thoát y cởi hai cái áo bikini nhỏ xíu của nhau, chủ đề của câu chuyện là về Daisy. Giữa những tiếng huýt sáo và reo hò, Cal Turner, Lester Crandall và Eddy Dean Jones đều hỏi anh đã gặp cô chưa. Chán ghét, Jack rời phòng và quay lại quầy bar. Thật quá mức khó chịu khi một người đàn ông không được phép tận hưởng hai cô nàng gần như chẳng mặc gì âu yếm nhau cách anh ta chỉ có hai mét. Anh không biết Daisy sẽ ở lại thị trấn trong bao lâu, nhưng anh cực kỳ hy vọng rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn ngủi. Sau đó có lẽ mọi người sẽ có chuyện gì khác hay ho hơn để bàn tán. Chủ yếu anh hy vọng cô biết điều mà tránh xa khỏi lối đi của anh. Anh đặt chai bia lên quầy bar và tìm đường ra khỏi The Road Kill, bỏ lại đằng sau những cuộc trò chuyện và nghi vấn về Daisy Monroe. Mưa trút xuống trên mũ và làm ướt đẫm vai khi anh đi qua bãi đỗ xe. Nhưng với mỗi bước chân, ký ức vẫn bám sát theo sau. Ký ức anh nhìn vào đôi mắt nâu xinh đẹp khi anh hôn lên đôi môi mềm mại. Tay anh lướt lên mặt sau phần đùi trơn mịn, trượt xuống dưới cái váy cổ động màu xanh và vàng của cô. Ký ức Daisy Lee đi một đôi bốt cao bồi màu đỏ có trái tim trắng hai bên và không mặc gì khác nữa. “Rời bữa tiệc sớm thế sao?” Gina hỏi khi cô ta đi về phía anh. Anh nhìn cô ta. “Bữa tiệc chán chết.” “Chúng ta có thể tự tổ chức tiệc của riêng mình.” Đúng là điển hình của Gina, cô ta không đợi anh chủ động. Thường thì điều đó khiến anh khó chịu. Tối nay thì không. Cô ta đưa miệng lên cho anh, và cô ta có vị của bia ấm cùng dục vọng. Jack hôn lại. Với hai bầu ngực săn chắc của đối phương ép chặt vào ngực, những đòi hỏi đầu tiên của dục vọng khuấy động bụng dưới anh. Anh kéo Gina vào lòng và đốt nóng mọi thứ cho tới khi tất cả những gì anh cảm thấy là dục vọng và nước mưa xối ướt da thịt qua lần áo sơ mi. Anh thay thế mọi ý nghĩ về đôi mắt nâu và váy cổ động bằng người phụ nữ đang ép chặt người vào khóa quần mình. Daisy Monroe giơ tay lên trước cửa kính rồi lại hạ tay xuống. Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực và dạ dày xoắn lại thành một cục lớn. Mưa trút xuống hiên nhà quanh khắp người cô và nước mưa chảy từ ống xối xuống thảm hoa. Xưởng xe sau lưng cô còn để đèn, soi sáng mọi ngóc ngách quanh công ty xe Mỹ cổ Parrish. Nhưng nơi cô đứng tối đen như mực, như thể ánh sáng không dám bò sâu hơn vào sân. Xưởng xe mới toanh, được xây cất lại kể từ lần trước cô thấy nó. Khoảnh sân bao quanh xưởng xe được dọn dẹp. Các chiếc xe cũ đã bị kéo đi. Dù vậy, từ những gì cô quan sát được thì ngôi nhà vẫn hệt như cũ, mang theo ký ức về một làn gió hè tươi mát thổi qua mái tóc cô và đem đến mùi hoa hồng. Về vô số những tối cô ngồi trên hàng hiên mà giờ cô đang đứng, kẹp giữa Steven và Jack, bật cười trước những câu chuyện đùa của họ. Sấm chớp nổ đùng đoàng và rọi sáng cả bầu trời đêm, đập tan ký ức ấy. Một điềm báo cho thấy cô nên rời đi và quay lại vào lúc khác. Cô không giỏi đối đầu trực diện. Cô không thuộc tuýp người đương đầu trực tiếp với rắc rối. Giờ thì cô có giỏi làm thế hơn hồi trước, nhưng... có lẽ cô nên gọi trước. Xuất hiện bất thình lình trước cửa nhà ai đó lúc mười giờ tối không phải là lịch sự, và cô hẳn trông giống hệt một con mèo sũng nước. Trước khi rời khỏi nhà mẹ mình, cô đã bảo đảm tóc mình được chải mượt và dài chớm vai. Lớp trang điểm trông hoàn hảo, áo trắng tinh và quần kaki là phẳng phiu. Còn bây giờ, cô chắc chắn rằng tóc mình xù bông, mascara trôi mất biệt và quần thì dính đầy bùn từ cái vũng nước mà cô đã vô tình lao qua. Cô quay người bỏ đi, rồi ép mình quay lại. Vẻ ngoài của cô không thật sự quan trọng, và chẳng bao giờ có thời điểm nào là tốt đẹp cho việc cô phải làm hết. Cô đã ở trong thị trấn ba ngày rồi. Cô phải nói chuyện với Jack. Tối nay. Cô đã trì hoãn quá lâu. Cô phải kể cho anh những gì mình đã giấu giếm anh suốt mười lăm năm. Cô lại giơ tay lên và gần như đứng tim khi cánh cửa gỗ bật ra trước khi cô kịp gõ. Qua lớp cửa kính và không gian tối om bên trong, cô có thể trông thấy bóng dáng một người đàn ông. Anh ta không mặc áo, và một tia sáng từ sâu tít trong nhà tỏa ra một luồng sáng vàng ấp áp từ đằng sau, rót xuống cánh tay, bờ vai và nửa lồng ngực trần của anh ta. Rõ ràng là đáng ra cô nên gọi trước. “Xin chào,” cô mở lời trước khi có thể đầu hàng sự lo lắng của mình. “Tôi đang tìm Jackson Parrish.” “Trời trời,” giọng anh ta kéo dài trong bóng tối, “không phải Daisy Lee Brooks sao?” Đã mười lăm năm trôi qua và giọng anh đã thay đổi. Nó trầm hơn giọng chàng trai mà cô biết, nhưng cô vẫn sẽ nhận ra cái tông giọng xấu xa đó ở bất kỳ đâu. Không ai có thể đưa nhiều chất chế giễu vào giọng nói của mình như Jack. Cô đã từng một lần hiểu được nó. Từng biết điều gì ẩn sau giọng nói đó. Cô không dám đùa rằng mình vẫn còn biết rõ anh nữa. “Xin chào, Jack.” “Cô muốn gì, Daisy?” Cô nhìn anh chăm chú qua lớp cửa kính và bóng tối, nhìn những đường nét của người đàn ông mà một thời cô từng biết rất rõ. Cảm giác xoắn cục trong dạ dày cô sít chặt hơn. “Tôi muốn... tôi cần nói chuyện với anh. Và tôi – tôi đã nghĩ...” Cô hít một hơi thật sâu và ép mình ngừng lắp bắp. Cô đã ba mươi ba rồi. Cả anh cũng vậy. “Tôi muốn nói với anh rằng tôi ở trong thị trấn trước khi anh nghe được điều đó từ người khác.” “Muộn quá rồi.” Mưa trút xối xả xuống mái nhà và sự im lặng kéo dài ra giữa họ. Cô có thể cảm nhận được ánh mắt anh đặt trên người mình. Ánh nhìn ấy chạm vào mặt và ngực áo đi mưa màu vàng của cô, và đúng lúc cô nghĩ anh sẽ không nói gì nữa, anh cất lời, “Nếu đó là những gì cô đến để nói với tôi thì cô có thể đi được rồi.” Vẫn còn. Rất nhiều. Cô đã hứa với Steven rằng cô sẽ đưa cho Jack bức thư mà anh đã viết vài tháng trước khi mất. Bức thư nằm trong túi áo, bây giờ cô phải kể thật cho Jack nghe những gì đã xảy ra mười lăm năm trước, rồi chuyển bức thư. “Tôi nhất định phải nói chuyện với anh. Làm ơn đi.” Anh nhìn cô vài giây dài đằng đẵng rồi quay người và biến mất trong nhà. Anh không mở cửa cho cô, nhưng anh cũng không đóng sập cánh cửa gỗ vào mặt cô. Anh đã cho thấy rõ là anh sẽ tỏ ra khó khăn hết mức có thể. Nhưng rồi, anh đã bao giờ làm chuyện gì trở nên dễ dàng cơ chứ? Vẫn như mọi lần, cánh cửa kính kêu cọt kẹt khi cô mở nó ra. Cô đi theo anh qua phòng khách về hướng bếp. Dáng người cao ráo của anh biến mất ở góc rẽ, nhưng cô biết đường. Trong nhà có mùi sơn mới. Cô nhìn qua những đồ đạc màu tối và một cái tivi màn hình lớn, thoáng thấy chiếc đàn piano của bà Parrish đặt sát một bức tường và trong thoáng chốc cô tự hỏi, bao nhiêu thứ đã thay đổi kể từ lần cuối cô ghé qua ngôi nhà này. Đèn bật lên khi cô đi vào bếp, và cảm giác cứ như bước vào một vết lõm thời gian vậy. Cô ngờ ngợ mong chờ sẽ nhìn thấy bà Parrish đứng trước lò sưởi màu quả hạch, nướng bánh mì hoặc những cái bánh quy snickerdoodle mà Daisy thích nhất. Tấm vải sơn lót sàn nhà màu xanh lục đặt trước bồn rửa vẫn còn vết ố ngày xưa và kệ bếp vẫn có những đốm li ti màu xanh dương và xanh ngọc. Jack đang đứng trước tủ lạnh, nửa thân trên khuất sau cửa tủ đang mở. Những ngón tay rám nắng của anh cầm quanh tay cầm bằng crôm, và tất cả những gì cô có thể thấy rõ trên người anh là đường cong ở mông và đôi chân dài. Một túi trên chiếc quần Levi’s bó sát có một vết rách gần như đứt rời hẳn ra, và chỉ khâu trông xơ xác. Adrenaline chạy khắp mạch máu của cô, và cô nắm chặt tay lại để ngăn chúng khỏi run rẩy. Rồi anh đứng thẳng dậy, và mọi thứ dường như chậm lại, như thể có ai đó bật công tắc trên máy chiếu phim. Anh quay người lại khi đóng cửa tủ và cầm một hộp sữa trên bàn tay đặt cạnh đùi. Trong khoảnh khắc, sự chú ý của cô dính chặt vào đường lông mảnh chòi lên khỏi cạp quần Levi’s và uốn quanh rốn anh. Cô đưa ánh mắt lướt qua phần bụng phẳng lì và những cơ bắp rắn chắc trên ngực anh. Nếu cô mà còn bất kỳ nghi ngờ nào, thì nhìn thấy anh thế này cũng đủ để xua đuổi hết chúng đi. Đây không phải là chàng trai mà cô từng biết. Đây rõ ràng là một người đàn ông. Cô ép mình đưa mắt rời khỏi cái cằm nam tính, cánh cung sắc nét ở đôi môi màu nâu, và nhìn vào mắt anh. Cô cảm giác thấy cổ họng mình trở nên khô khốc. Jack Parrish xưa kia luôn là một chàng trai ưa nhìn, còn giờ anh đẹp chết người. Một lọn tóc dày rơi xuống trán và chạm vào chân mày anh. Đôi mắt màu xanh lục sáng mà cô vẫn nhớ, từng một thời nhìn cô đầy đam mê và sở hữu, nhìn trả cô như thể anh chẳng thích gặp cô hơn gặp một con chó hoang. “Cô đến đây để trố mắt ra nhìn thế à?” Cô đi sâu hơn vào bếp và đút tay vào túi áo mưa. “Không, tôi đến để nói với anh là tôi về thị trấn để thăm mẹ và em gái tôi.” Anh nâng hộp sữa lên và uống thẳng từ hộp giấy, chờ cô nói thêm. “Tôi nghĩ là anh nên biết.” Anh nhìn cô chằm chằm qua hộp giấy, rồi anh hạ nó xuống. Có vài thứ rốt cục chẳng hề thay đổi. Jack Parrish, chàng trai hư hỏng và thích làm loạn, vẫn luôn là một người thích uống sữa. “Điều gì khiến cô nghĩ là tôi thèm quan tâm?” anh hỏi và quệt mu bàn tay trên miệng. “Tôi không biết anh có quan tâm hay không. Ý tôi là, tôi có băn khoăn xem anh sẽ nghĩ gì, nhưng tôi không dám chắc.” Chuyện này khó khăn hơn nhiều những gì cô đã mường tượng. Và những gì mà cô tưởng tượng cũng đã khá là khó nhằn rồi. “Giờ thì cô không phải băn khoăn nữa nhé.” Anh dùng hộp sữa chỉ ra căn phòng khác. “Nếu đó là tất cả thì cửa kia.” “Không, đó không phải là tất cả.” Cô nhìn xuống mũi giày của mình, vải da màu đen đã bị mưa vấy bẩn. “Steven muốn tôi kể cho anh nghe một chuyện. Anh ấy muốn tôi nói với anh rằng anh ấy xin lỗi về tất cả mọi chuyện.” Cô lắc đầu và tự chữa lại. “Không... đã từng xin lỗi chứ, ý tôi là thế. Anh ấy đã mất bảy tháng trước và giờ tôi vẫn thấy khó lòng mà tưởng nhớ về anh ấy khi dùng thì quá khứ. Không hiểu sao điều ấy không đúng. Như thể nếu tôi làm vậy, anh ấy sẽ như chưa bao giờ tồn tại.” Cô nhìn Jack. Vẻ mặt anh không hề thay đổi. “Bó hoa anh gửi đến rất đẹp.” Anh nhún vai và đặt sữa lên kệ bếp. “Penny đã gửi chúng.” “Penny?” “Penny Colten. Đã cưới Leon Kribs. Giờ cô ấy làm việc cho tôi.” “Cảm ơn Penny hộ tôi nhé.” Nhưng Penny không gửi chúng và ký tên anh mà anh không biết. “Đừng xem nó là cái gì ghê gớm.” Cô biết Steven từng có ý nghĩa quan trọng đến thế nào với anh. “Đừng giả vờ anh không quan tâm việc anh ấy đã mất.” Anh nhướn một bên mày. “Cô quên là tôi từng cố giết cậu ta rồi.” “Anh hẳn sẽ không giết anh ấy, Jack.” “Đúng là không, cô nói đúng. Tôi cho là cô không đáng giá đến thế.” Câu chuyện đang đi nhầm hướng và cô phải lái nó quay lại. “Đừng tỏ ra xấu xa.” “Cô gọi thế này là xấu xa sao?” Anh bật cười, nhưng không có vẻ gì dễ chịu. “Thế này chẳng là gì, mao lương ạ. Cứ ở gần đi và tôi sẽ cho cô thấy tôi có thể trở nên xấu xa thế nào.” Cô đã biết Jack có khả năng trở nên xấu xa thế nào rồi, nhưng dù cô có thể là một kẻ hèn nhát, cô cũng bướng bỉnh như cỏ lưỡi chó. Cũng như Jack không còn là chàng trai mà cô từng quen biết, cô cũng không phải là cô gái ngày xưa anh biết nữa. Cô đã đến để kể với anh sự thật. Sau rốt thì cũng phải thế thôi. Trước khi đi tiếp được đường đời của mình, cô phải kể cho anh về Nathan. Cô đã mất mười lăm năm mới dám làm vậy, và anh có thể tỏ ra xấu xa hết mức anh muốn, nhưng anh sẽ phải lắng nghe cô. Một tia sáng trắng lọt vào khóe mắt Daisy trong tích tắc, trước khi một người phụ nữ mặc một cái áo sơ mi trắng của đàn ông bước vào bếp. “Chào,” cô ta nói khi đến đứng cạnh Jack. Anh nhìn xuống cô ta. “Anh đã bảo em ở yên trong giường mà.” “Em phán chán lên được vì không có anh.” Hơi nóng tràn qua cổ lên má Daisy, nhưng dường như cô là người duy nhất thấy xấu hổ trong phòng. Jack có bạn gái. Tất nhiên là vậy. Anh vẫn luôn có một hoặc hai cô bạn gái. Đã từng có thời điều ấy thật đau đớn. “Xin chào, Daisy. Tôi không biết cô còn nhớ tôi không. Tôi là Gina Brown.” Nó không còn đau đớn nữa, và Daisy hơi xấu hổ khi phải thú nhận với bản thân rằng chủ yếu cô chỉ thấy vô cùng nhẹ nhõm. Cô đã đi cả quãng đường dài từ Seattle để kể cho anh về Nathan, và giờ tất cả những gì cô cảm thấy là nhẹ nhõm. Như thể một cái rìu vừa được nhấc khỏi cổ cô. Cô cho là mình hèn nhát hơn cô nghĩ. Daisy mỉm cười và băng qua phòng để chìa tay ra bắt tay Gina. “Tất nhiên là có. Chúng ta đã ở cùng lớp Chính phủ Mỹ vào năm cuối.” “Thầy Simmons.” “Phải rồi.” “Có nhớ lúc thầy ấy vấp phải một cái tẩy trên sàn nhà không?” Gina hỏi như thể không phải cô ta đang đứng đó và chỉ mặc mỗi áo sơ mi của Jack, Daisy dám cá, mà không có gì khác. “Chuyện đó đúng là rất buồn cười. Tôi vừa...” “Cái quái gì thế này?” Jack xen ngang. “Họp mặt lớp cấp ba à?” Cả hai người phụ nữ cùng ngẩng lên nhìn anh và Gina nói, “Em chỉ đang tỏ ra lịch sự với khách của anh mà thôi.” “Cô ta không phải khách của anh và cô ta sắp đi rồi.” Anh ghim chặt mắt vào Daisy, vẫn lạnh lùng và kiên quyết hệt như lúc cô mới bước chân vào cửa. “Rất vui được gặp cô, Gina,” cô nói. “Tôi cũng vậy.” “Chúc buổi tối tốt lành, Jack.” Anh tựa hông vào kệ bếp và khoanh tay ngang ngực. “Gặp hai người sau nhé.” Cô quay người băng qua cả căn phòng tối om và bước ra khỏi cửa. Mưa đã ngừng và cô tránh các vũng nước mưa trên đường đến chỗ chiếc Caddie[7] của mẹ cô đỗ cạnh xưởng xe. Lần sau, cô nhất định sẽ gọi trước. Đúng lúc cô vươn tay ra mở cửa, cô cảm nhận được một bàn tay đặt trên cánh tay xoay người cô lại. Cô nhìn lên mặt Jack. Ánh đèn an ninh chiếu xuống người anh và tạo bóng đen trên quai hàm cứng lại vì giận dữ của anh. Mắt anh nhìn thẳng vào mắt cô – không còn lạnh lùng nữa, chúng chất đầy vẻ giận dữ rực lửa. “Tôi không biết cô đến đây để tìm kiếm gì, sự xá tội hay tha thứ,” giọng nói kéo dài của anh nhấn mạnh hơn lúc trước. “Nhưng cô sẽ không tìm được đâu.” Anh thả tay cô ra như thể anh không thể chịu nổi việc chạm vào cô. “Phải, tôi biết.” “Tốt. Cô hãy tránh xa tôi ra, Daisy Lee,” anh kéo dài các nguyên âm trong tên cô. “Cô tránh xa ra hoặc tôi sẽ khiến đời cô trở nên đau khổ.” Cô nhìn vào khuôn mặt tối om của anh, nhìn vào sự giận dữ không hề nguôi bớt trong mười lăm năm. “Hãy tránh xa tôi ra,” anh lặp lại lần cuối trước khi quay người trên gót chân trần và biến mất trong bóng tối. Cô biết mình nên khôn ngoan mà lưu ý đến lời cảnh báo của anh. Quá tệ là cô lại không có lựa chọn đó. Mặc dù anh vẫn chưa biết, nhưng cả anh cũng không. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Trở Lại của tác giả Rachel Gibson.
Tình Yêu Không Trốn Chạy - Kinh Hồng
Có lẽ, trước tiên chúng ta sống là vì bản thân mình, nhưng thế giới vô cùng rộng lớn, tháng ngày dần trôi, sống một mình sẽ cảm thấy cô đơn, vì thế, chúng ta tự đi kiếm tìm rất nhiều điều để bù lấp cảm giác cô đơn đó. *** Tác giả Kinh Hồng Tác giả nữ, cung song ngư, mặc dù đã bước qua lứa tuổi mơ mộng nhưng vẫn tin tưởng vào những câu chuyện cổ tích tình yêu tuyệt đẹp. Nhận được sự dạy bảo nghiêm khắc của cha mẹ, thích đọc sách, yêu văn thơ và bút mực, hiện tại đang sống ở Thiên Tân. Các tác phẩm đã xuất bản: Tình yêu không mật mã, Như Mộng Lệnh (2 tập), Chim anh vũ, Tôi muốn yên lòng. *** Kỹ sư Hàn Hiểu hai mươi bảy tuổi, vô tình gặp lại hoàng tử của lòng mình là La Thanh Phong, bạn học thời trung học phổ thông. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã đốt cháy tình cảm kìm nén suốt bao năm nay của cô. Anh là bạn học cùng lớp đã nhiều năm không gặp, tốt nghiệp học viện Mỹ thuật Munich, quay về thành phố T để chuẩn bị mở phòng tranh của mình. Đồng hành cùng anh còn có một người đầu tư vào phòng tranh, đó là Vu Dương, người Hoa kiều, sinh ra trong một gia đình rất có thanh thế, em họ của Hình Nguyên. Vu Dương và La Thanh Phong thân thiết nhiều năm, đã ngầm được coi là một đôi sắp kết duyên phu thê nên không có cảm tình với các cô gái xuất hiện quanh anh. Hàn Hiểu cũng vì cô ấy mà tiến thoái lưỡng nan trong chuyện tình cảm với anh. Còn La Thanh Phong qua mỗi lần tiếp xúc với Hàn Hiểu lại nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Vu Dương không vì thế mà cam lòng để mất La Thanh Phong, cô không ngại mượn những thế lực hắc ám hỗ trợ gia đình mình, bắt đầu phá hoại công việc làm ăn của phòng tranh để uy hiếp anh. Anh họ của cô là Hình Nguyên, một người có xuất thân phức tạp trong dòng họ Vu lại theo đuổi Hàn Hiểu. Lúc đó, Hàn Hiểu bị trợ lý mới đến phòng thực nghiệm là Lý Nam bày kế hãm hại, gặp phải sai sót lớn trong công việc nên không thể không từ chức. Sau khi thất nghiệp, vì vấn đề giới tính nên cô không thuận lợi khi tìm việc mới. La Thanh Phong có quen biết rộng rãi nên giới thiệu cô với trưởng bộ phận kỹ thuật của Hải Công là Lưu Đông Pha. Lưu Đông Pha hiểu được tài năng của cô, mời cô làm kỹ sư máy móc tại bộ phận kỹ thuật của Hải Công. Ở vị trí mới, công việc đầu tiên của Hàn Hiểu là rời khỏi lục địa, cùng đồng nghiệp tiến hành nghiệm thu, kiểm tra các vấn đề về kỹ thuật. Một trận bão đột ngột đến, trong tình hình cấp bách, Hàn Hiểu chỉ còn cách cùng các nhân viên kỹ thuật khác chống lại thời tiết khắc nghiệt, cùng nhau bảo vệ tài sản quốc gia. Hàn Hiểu bị thương nặng, sau khi thoát chết lại tiếp tục rơi vào “vụ bắt cóc” mà Hình Nguyên và Vu Dương cố ý tạo ra. Trong những ngày đợi Hàn Hiểu quay về, mẹ của La Thanh Phong biết mối tình mới của con trai mình, không vừa lòng nên nói lời không hay với bố mẹ của Hàn Hiểu, vì thế La Thanh Phong nói lời xin lỗi với ông bà Hàn, điều đó khiến cho Hàn Hiểu sau này biết chuyện cảm thấy rất đau lòng. Trong những ngày ở bên Hình Nguyên, cô cảm động trước sự chăm sóc tận tình của anh. Khi tình cảm giữa hai người có những biến chuyển tốt, một việc bất ngờ khác lại xảy ra khiến cho tình cảm của họ bị rạn nứt… Giữa một người mình đã hâm mộ từ rất lâu và một người thật sự có tình cảm với cô, giữa yêu và được yêu, Hàn Hiểu có thể phá tan lớp mây mù để đưa ra sự lựa chọn đúng đắn không?   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Không Trốn Chạy của tác giả Kinh Hồng.
Thành Trì - Archibald Joseph Cronin
The Citadel (THÀNH TRÌ) kể về Andrew Manson – một bác sĩ trẻ vừa ra trường – háo hức với những lý tưởng tốt đẹp về nghề nghiệp lãng mạn này - và cuộc chiến chống lại hệ thống y tế bảo thủ, lạc hậu với những cung cách chữa bệnh dựa theo chủ nghĩa kinh nghiệm, nặng về lý thuyết sách vở không chỉ ở những vùng xa xôi hẻo lánh ở xứ Wales mà còn ở những bệnh viện, phòng khám ngay tại London – thủ đô nước Anh vào những năm 20, 30 của thế kỷ 20. Câu chuyện bắt đầu tại Drineffy – một thị trấn mỏ ở South Wales – nơi Andrew bắt đầu công việc với tư cách một bác sĩ đa khoa, ngay sau khi vừa ra trường, với những bệnh nhân đầu tiên; những nỗ lực và bất lực đầu tiên trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân vì những kiến thức khô cứng và hạn hẹp gò trong các sách giáo khoa và dược điển mà anh đã học ở trường; những cảm xúc tinh khôi mới mẻ về tình yêu đầu tiên với cô giáo trẻ Christine Barlow và tình đồng đội với Phillip Denny – một bác sĩ ngoại khoa tài năng với một trái tim nhân hậu ẩn dưới vẻ ngoài cộc cằn và thái độ mỉa mai với hệ thống y tế cổ lỗ của nước Anh lúc đó, đầy rẫy những thầy thuốc bất tài chỉ giỏi lừa bịp bệnh nhân… Tiểu thuyết này đã từng thu hút rất nhiều độc giả Việt Nam nhiều năm về trước, không chỉ hấp dẫn về những tình tiết đi sâu vào mặt trái của nghề y và hệ thống y tế của nước Anh những năm đầu của thế kỷ 20, nó còn thu hút ở câu chuyện tình yêu nhiều bi kịch của nhân vật chính – bác sĩ Andrew Manson, ở chính lý tưởng và cả sự chao đảo về lý tưởng của anh khi phải đối mặt với những quy chuẩn giá trị của xã hội và đồng nghiệp thời đó về chính nghề nghiệp cao quý này. Hơn nữa, dù bản thảo của truyện tiểu thuyết này đã được viết ra gần 80 năm, nhưng nhiều vấn nạn về nghề y được nêu ra từ lúc đó, nay đọc lại vẫn còn thấy rất gần gũi với người đọc Việt Nam, khi so sánh với thực trạng hành nghề y ở khá nhiều vùng miền ở nước ta hiện nay. *** Tác giả Archibald Joseph Cronin là một bác sĩ trở thành nhà văn. Quãng đời bác sĩ của ông có những chặng đường giống nhân vật En- đru Men-sân. Tốt nghiệp đại học y khoa, ông về làm việc tại một vùng mỏ miền Nam xứ Uên rồi ra Luân Đôn ở hơn mười năm. Sau đó tình hình sức khỏe buộc ông phải từ bỏ nghề y. Trong những năm làm bác sĩ, Cronin đã có dịp tìm hiểu cuộc sống và lao động của những người thợ mỏ, và đồng thời nhìn thấy tường tận những mặt trái của ngành y ở nước Anh. Những cảm xúc và những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian đó thôi thúc ông viết và chúng đã đem lại cho tác giả những trang sách vô cùng chân thực và sinh động. Tác phẩm đầu tay “Lâu Đài Người Bán Nón”, ra đời năm 1931, đã đưa ngay Cronin lên một vị trí nổi bật trên văn đàn. Tiếp đó là các cuốn “Dưới các vì sao” (1935) và “Thành trì” (1937). Các tác phẩm của Cronin đều đậm tính hiện thực, chan chứa tình cảm nhân đạo và giàu tình tiết hấp dẫn. Một nhà phê bình văn học đã gọi ông là “Charles Dickens mới của Anh" *** Vào một buổi chiều tà tháng mười năm 1921, trên con tàu vắng tanh chạy từ Xoan- đi đang nặng nề trườn mình leo dốc ngược thung lũng Pi-no- Oen, ở toa hạng ba có một người trai trẻ, quần áo xuềnh xoàng, mắt đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ. En- đru Men-sân đã đi đường suốt cả ngày hôm nay từ miền Bắc, đến Ca-lai và Sơ-ru-bơ-ri thì chuyển tàu, thế mà sang chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình buồn tẻ đưa anh đến miền Nam xứ Uên, anh còn thấy trong lòng bồn chồn háo hức hơn khi nghĩ đến công việc anh sắp nhận tại mảnh đất xa lạ, gớm ghiếc này. Đây là việc làm đầu tiên trong đời bác sĩ của anh. Bên ngoài, trời mưa xối xả che mờ những dãy núi dựng đứng hai bên con đường sắt đơn tuyến. Ngọn núi chìm vào trong bầu trời trống rỗng nhờ nhờ xám, còn sườn núi loang lổ những miện giếng mỏ như những vết sẹo chạy dốc xuống thành một mảnh màu đen ảm đạm, thê lương, nham nhở những bãi xỉ quặng kết sù, bên trên có vài ba con cừu bẩn thỉu vơ vẩn tìm mãi không được một ngọn cỏ. Chẳng có một lùm cây, một túp cỏ nào. trong ánh sáng nhợt nhạt đang tối dần, những thân cây trông giống như những bóng ma khẳng khiu, còi cọc. Đến một chỗ ngoặt, ngọn lửa đỏ rực của một xưởng đúc loé lên chiếc sáng một đám thợ mình trần, lưng vươn dài, tay quai tay búa. Tuy cảnh ấy vụt biến đi ngay đằng sau những công trình hỗn độn trên mặt đất của mỏ, song nó vẫn để lại một cảm giác mãnh liệt, căng đầy sức sống. En- đru hít một hơi dài. Trước cảnh tượng ấy, anh bỗng thấy trong người trào lên một nguồn nghị lực, tràn ngập một cảm giác hân hoan nẩy sinh từ niềm hy vọng và hứa hẹn của tương lai. Nửa giờ sau, trời tối hẳn càng làm cho cảnh vật thêm xa lạ và hoang vắng, con tàu hổ hển vào Blây-nen-li, thị trấn tận cùng của thung lũng và cũng là ga cuối cùng của tuyến đường. Thế là cuối cùng anh cũng tới nơi. Tay xách va-li, En- đru nhảy xuống tàu, rảo bước đi hết ga, nhớn nhác xem có ai ra đón không. Ở cổng ga, dưới một ngọn đèn chao đi chao lại trước gió, có một ông lão mặt vàng ệch, đội chiếc mũ vuông cạnh và mặc chiếc áo mưa dài thườn thượt đang đứng đợi. Ông lão nhìn En- đru xoi mói, hỏi với giọng khó chịu: - Ông là phụ tá mới của bác sĩ Pây-giơ phải không? - Vâng. Tên tôi là Men-sân, En- đru Men-sân. - Hừ! Còn tôi là To-mớt. “Lão to-mớt”, ai cũng gọi như vậy, mặc xác họ. Tôi đưa xe đến kia kìa… Lên đi… trừ khi ông muốn lội nước thì không kể. En- đru quẳng va-li vào trong xe, rồi trèo lên chiếc xe ọp ẹp đóng một con ngựa đen đủi, cao lêu nghêu, gầy giơ xương. Lão To-mớt bước lên theo, cầm lấy dây cương và thét: - Đi nào, Tép-phi! Chếc xe lăn bánh qua thị trấn. En- đru cố gương mắt nhìn xem thị trấn này như thế nào, nhưng qua màn mưa chỉ thấy lờ mờ những dãy nhà thấp lè tè, xám xịt, nối đuôi nhau dưới chân dưới ngọn núi cao ngút lúc nào cũng sừng sững trước mắt. Lão xà ích già lặng thinh không nói một câu nào đến mươi phút, chỉ liếc đôi mắt gườm gườm từ dưới vành mũ lõng tõng mưa nhìn En- đrụ Trông lão không có một vẻ gì giống người đánh xe ngựa bảnh bao của một bác sĩ làm ăn khấm khá. Lão bé loắt choắt, lôi thôi lếch thếch, người lúc nào cũng xông ra một mùi khét lèn lẹt. Mãi sau lão mới nói: - Vừa mới nhận bằng xong phải không? En- đru gật đầu. - Biết mà. – Lão To-mớt nhổ nước bọt đánh toẹt một cái. Lão thấy mình đoán trúng nên ham nói chuyện hơn, giọng ồ ồ – Người phụ tá cũ vùa mới bỏ đi cách đây hai hôm. Nói chung, chẳng ai chịu ở lại. - Sao thế? – Tuy băn khoăn nhưng En- đru vẫn mỉm cười. - Một là vì quá nhiều việc, chắc thế. - Vì sao thế? - Rồi sẽ biết! Một lát sau, như một người hướng dẫn khách du lịnh giới thiệu một nhà thờ to đẹp, lão To-mớt giơ chiếc roi đánh ngựa chỉ về một phía cuối một dãy nhà, chỗ một khung cửa nhỏ có ánh đèn phả ra một đám hơi nước. - Kia kìa, thấy không? Đấy là cửa hàng khoai rán của tôi. Bà lão nhà tôi ở đấy. Mỗi tuần rán khoai hai lần. Có cả cá nữa. – Một sự thích thú ngần nào đó làm méo xệch chiếc môi trên dài của lão – Rồi thể nào ông cũng mò đến đó ngay mà. Phố chính đến đây là hết. Rẽ sang một ngách phố bên cụt lủn, gồ ghề, chiếc xe lọc cọc chạy qua một bãi đất trống rồi ngoặc vào một lối đi hẹp của một ngôi nhà đứng tách biệt với những nhà bên cạnh, đằng sau ba cây thông Nam Mỹ. Ngoài cổng treo chiếc biển đề “Brin-gao- Ơ” ... Mời các bạn đón đọc Thành Trì của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6