Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Tình ca cho Nick và Norah - Rachel Cohn
Tên eBook: Tình Ca Cho Nick và Norah (full prc, pdf, epub) Tác giả: Rachel Cohn, David Levithan  Thể loại: Tiểu thuyết, Lãng mạn, Văn học phương Tây Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 320 Kích thước: 13×20.5 cm Dịch Giả: Thái Hà Số trang: 276 Ngày xuất bản: 09-2010 Giá bìa: 49.000 ₫ Hình thức: Bìa mềm Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Chạm trán bạn gái cũ. Bạn gái cũ đã có bạn trai mới. Bất chợt đề nghị cô gái đứng kế bên làm bạn gái của mình trong năm phút. Hôn cô ấy và sau đó là một cuộc phiêu lưu đầy bất trắc nơi những người trong cuộc cũng không chắc về bản thân. Tất cả những điều đó Nick đã trải qua trong chỉ một đêm. Cùng Norah. Nụ hôn bất ngờ và nồng nhiệt hơn dự định ấy đã đưa cặp đôi năm phút khởi hành một chuyến phiêu lưu cảm xúc vô tiền khoáng hậu xuyên đêm Manhattan, và cái gọi là “cuộc hẹn đầu tiên” đã trở thành một đêm rực rỡ của những khoảnh khắc chênh vênh trên trên ranh giới thảm họa và tình yêu, giữa âm nhạc, tiếng cười, những cảm xúc dâng tràn hơn mức trái tim có thể dung chứa, bối rối và đam mê, như một bản danh sách các khúc ca bất tận mà có lẽ chẳng mấy ai được trải nghiệm lần thứ hai trong đời. Cuốn sách hay nhất trong năm do Kirkus Reviews bình chọn Cuốn sách hay nhất cho độc giả trẻ do Hiệp hội Thư viện Mỹ bình chọn Nằm trong top 10 cuốn sách do Hiệp hội Thư viện Mỹ lựa chọn Mời các bạn đón đọc Tình ca cho Nick và Norah của tác giả Rachel Cohn & David Levithan.
Nỗi cô đơn của Các số Nguyên tố - Paolo Giordano
Tên eBook: Nỗi Cô Đơn Của Các Số Nguyên Tố (full prc, pdf, epub) Tác giả: Paolo Giordano  Thể loại: Tiểu thuyết, Tâm lý, Văn học Italia Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 440 Kích thước: 13x20.5 cm Dịch Giả: Lê Thúy Hiền Số trang: 370 Ngày xuất bản: 08-2009 Hình thức: Bìa mềm Giá bìa: 62.000 ₫ Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Cô bé Alice bảy tuổi, gặp tai nạn trượt tuyết kẹt trong hẻm núi ngập tuyết, không ai đến cứu. Mattia, cậu bé bảy tuổi, bỏ em một mình trong công viên để đi sinh nhật; lúc quay về cô bé em song sinh vĩnh viễn biến mất, cậu được bố mẹ tìm ra lúc đang tự rạch tay mình. Cuốn tiểu thuyết được trao một trong những giải thưởng danh giá nhất nước Ý- Strega, "Nỗi cô đơn của các số nguyên tố" với số lượng bán ra hơn một triệu bản được bắt đầu như thế. Sau biến cố ghê gớm đó, Alice và Mattia đã thay đổi hẳn. Dường như cây cầu dây nối hai đứa trẻ với thế giới bên ngoài bị chặt mất một bên để thỉnh thoảng lại rung lên chỉ chực đứt mỗi khi chúng tiếp xúc với thế giới bên ngoài.  Ở trường học, không ai coi hai đứa trẻ này là bình thường. Mattia tự đào một vực thẳm quanh mình không cho ai đến gần. Cậu còn khác người bởi là một thiên tài toán học và bởi thói quen rạch những vật sắc lên người, để lại những vết sẹo như nhật ký bởi ám ảnh lỗi lầm mà cậu không thể tha thứ được cho mình. Alice chán ăn và gầy không thể tưởng. Sự tình cờ kéo họ lại gần nhau và trở thành bạn.  Ngày Mattia tốt nghiệp và nhận được lời mời chào danh giá của một trường đại học nước ngoài, Alice đến chúc mừng và tình cảm của họ đã có thể tiến xa hơn nữa. Nhưng như hai số nguyên tố, gần nhau nhưng không bao giờ chập lại làm một được bởi giữa chúng có một số chẵn ngăn cách, sự bất lực trong giao tiếp đã làm họ không thể nói được điều mình thực sự nghĩ.  Sự bất lực ấy lan tràn trong gia đình nơi họ sống: bố mẹ không nói chuyện được với nhau, không nói chuyện được với con cái. Sự bất lực ấy lan tràn ở nhà trường khi cô giáo và bạn bè không giao tiếp với những đứa trẻ khác thường. Sự bất lực ấy hiện diện trong đời sống sau này của Alice và Mattia khi họ trưởng thành.  Alice không nói ra những điều cô thực sự cảm thấy với chồng và cuối cùng đánh mất hạnh phúc gia đình. Mattia không thực sự giao tiếp với học sinh - anh là giảng viên toán - mà chỉ nhìn vào bài giảng và những lời diễn giải trên bảng. Cuối cùng, Mattia cũng về gặp Alice khi cô nói có chuyện quan trọng nói với anh. Họ đã bên nhau, hôn nhau. Tưởng rằng cuộc đời đã muốn họ kết hợp cùng nhau nhưng vào phút cuối Mattia lại ra đi, Alice cũng đã sẵn sàng cho điều ấy. Cuốn tiểu thuyết như ánh đèn pha rọi vào phần xám tối không chỉ của xã hội Ý: tầm quan trọng của tuổi thơ trong việc hình thành nhân cách, sự kỳ thị trong trường học hay sâu sa hơn là sự dị ứng với người không giống mình, tình yêu - tình dục ở tuổi vị thành niên, cuộc sống của người đồng tính, nỗi cô đơn trong xã hội, sự bất lực trong giao tiếp ở mọi cấp độ, mọi môi trường xã hội...  Tác giả không tập trung miêu tả tâm lý của nhân vật mà đặt các phản ứng tâm lý vào một hoàn cảnh cụ thể. Cấu trúc truyện đơn giản, với hai câu chuyện song song, phát triển theo lối tuyến tính, chia thành nhiều chương, mỗi chương lại chia thành nhiều mẩu nhỏ không quá mười trang... - Một sự phân tích phù hợp với độc giả trong xã hội công nghiệp: thiếu thời gian và sự kiên nhẫn. Trong chuyện ta thấy những "bi kịch" - nếu nhìn từ ngoài vào - của các nhân vật đều bắt nguồn từ một chấn động tâm lý từ thời ấu thơ (Alice, Mattia) hay một sự kiện nào đó trong quá khứ (Denis, bạn của Mattia, đồng tính) rồi sau đó là thời vị thành niên. Mời các bạn đón đọc Nỗi cô đơn của các số nguyên tố của tác giả Paolo Giordano .
Nỗi Đau của Chàng Werther - Johann Wolfgang von Goethe
Tên eBook: Nỗi Đau Của Chàng Werther (full prc, pdf, epub)   Tác giả: Johann Wolfgang von Goethe  Thể loại: Tiểu thuyết, Best seller, Kinh điển, Văn học phương Tây Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 350 Kích thước: 14 x 20.5 cm Số trang: 220 Ngày xuất bản: 04-2014 Hình thức: Bìa Mềm Giá bìa: 58.000 ₫ Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Chán ghét đời sống thị thành rối ren vô hy vọng, Werther trở về làng quê  Wahlheim. Ở  nơi ấy, dưới bầu trời xanh, giữa những thung lũng tuyệt đẹp có lũ trẻ hồn nhiên và những nông dân chất phác thuần hậu, tâm hồn trống rỗng của chàng dường như đã trở nên lắng dịu và thư thái. Nhưng định mệnh đưa đẩy, khiến Werther gặp gỡ với thiếu nữ Lotte thanh tú, yêu kiều. Và trái tim nồng nhiệt của chàng nghệ sĩ, dù trốn chạy nơi đâu cũng không thể nguôi quên một mối tình si chỉ biết tôn thờ và dâng tặng, để rồi tan vỡ bi thảm… Là một trong những best-seller đầu tiên của thế giới, năm 1774, vừa được xuất bản, Nỗi đau của chàng Werther đã bùng lên như một cơn sốt, lan khắp châu Âu, đem lại sự nổi tiếng tức thì cho Johann Wolfgang von Goethe mới bước sang tuổi 25 đang vô danh. Tác phẩm đã gây nên một phong trào sáng tác thơ, kịch, nhạc mô phỏng Werther ở châu Âu trong ngót nửa thế kỷ. Suốt hơn 200 năm qua, Nỗi đau của chàng Werther vẫn giữ vị trí một kiệt tác kinh điển quan trọng, liên tục được xuất bản trên toàn thế giới. Nhận định Không chỉ là một bi kịch tình yêu, Nỗi đau của chàng Werther, phần nào lấy nguyên mẫu từ chính cuộc đời thực của Goethe, là nỗi đau từ những xung đột nhức nhối giữa tư tưởng và thực tại của một tâm hồn lớn, thể hiện khát vọng giải phóng tình cảm, khát vọng về quyền tự do, quyền bình đẳng của con người - mà Werther là một đại diện. Mời các bạn đón đọc Nỗi Đau của Chàng Werther của tác giả Johann Wolfgang von Goethe.
Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa kể con chó) - Jerome K. Jerome
Tên eBook: Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó) full prc, pdf, epub Tác giả: Jerome K. Jerome  Thể loại: Tiểu thuyết, Hài hước, Văn học Anh Bộ sách: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển (gram): 330 Kích thước: 13 x 20.5 cm Dịch Giả: Petal Lê Số trang: 328 Ngày xuất bản: 05-2010 Hình thức: Bìa mềm Giá bìa: 54.000 ₫ Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Bọn hắn có bốn mạng (tính cả con chó), và bọn hắn tiến hành chuyến du hành sông Thames để đời này với một lý do chính đáng không để đâu cho hết: để thư giãn. Quả thật, nếu không tính đến sự cứng đầu cứng cổ của mớ hành lý, sự vô ơn của con thuyền, sự quỷ quyệt của cái ấm trà, sự om sòm của bầy thiên nga (v.v. và v.v.) thì ái chà, bọn hắn quả đã được thư giãn thật. Thêm vào đó, bọn hắn còn được biết thế nào là một chuyến du hành đích thực… Nhờ đó, độc giả có thể ngấu nghiến từng câu từng chữ những câu chuyện ly kỳ hấp dẫn mà gã J. ấy đã vui lòng kể lại, có thể xuýt xoa trước tầng tầng lớp lớp kiến thức văn hóa, lịch sử, địa lý trong tác phẩm, có thể tấm tắc trước văn phong, có thể cười lăn trước những chi tiết khôn lường, có thể vỗ đùi đánh đét mà ngưỡng mộ văn tài của tác giả. Và, xin nhắc độc giả rằng, đây không phải một câu chuyện, đây là bản tường thuật chân thực không thể bỏ lỡ về một chuyến du hành sông nước “độc nhất vô nhị”… Mời các bạn đón đọc ​Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa kể con chó) của tác giả Jerome K. Jerome.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6