Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hình Hài Yêu Dấu - Alice Sebold

"Hình Hài Yêu Dấu" là cuốn tiểu thuyết nối tiếp đề tài phản ánh và mổ xẻ các vấn đề bạo lực trong xã hội hiện đại của Alice Sebold. Câu chuyện kể về một bé gái mười bốn tuổi, sau khi bị cưỡng hiếp và giết hại thảm khốc bởi một kẻ giết người hàng loạt, linh hồn cô trên thiên đường vẫn tiếp tục dõi theo mọi biến chuyển trong cuộc sống của những người thân yêu, cách họ vượt qua nỗi đau mất mát, từng bước trưởng thành của họ trên con đường đến hạnh phúc... Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng nhận được sự đồng cảm của nhiều tầng lớp độc giả và trở thành một hiện tượng trong thế giới xuất bản. Khi Susie cất tiếng kể chuyện, cô đã ở trên thiên đường. Từ chốn lạ lùng mới mẻ cao vời đó, cô kể cho ta nghe, bằng giọng nói tươi trẻ và sinh động của một cô bé mười bốn tuổi, một câu chuyện ám ảnh và tràn đầy hy vọng... Phải, từ trên cao, Susie nhìn thấy cuộc sống vẫn tiếp tục mà không có cô - bạn bè ở trường truyền tai nhau về sự biến mất của cô, gia đình vẫn hy vọng tìm thấy cô, kẻ giết cô đang cố gắng xoá mọi dấu vết, quan hệ của bố mẹ cô trở nên khó khăn, em gái lớn của cô cố gắng trở nên mạnh mẽ, và em trai nhỏ của cô tìm cách níu giữ lại ý nghĩa của thế giới đã mất... Hình Hài Yêu Dấu là cuốn tiểu thuyết toả sáng, khiến người đọc kinh ngạc, và nỗi đau đớn dựng xây nên câu chuyện đem lại niềm hy vọng lớn lao hơn tất thảy. Trong bàn tay của một người chỉ vừa mới cầm bút nhưng rất mực tài hoa, câu chuyện về bi kịch khủng khiếp nhất mà một gia đình có thể phải đối mặt đã được chuyển hoá thành một cuốn tiểu thuyết hồi hộp, thậm chí ngộ nghĩnh, về tình yêu, ký ức, niềm vui, thiên đường và vết thương lành lại. *** "Trong quả cầu tuyết đặt trên bàn làm việc của bố tôi có một con chim cánh cụt, cổ quàng khăn sọc trắng đỏ. Ngày tôi còn bé bố hay bế tôi ngồi trong lòng ôm rồi với tay lấy quả cầu. Ông lật ngược quả cầu để các bông tuyết tụ ở đỉnh cầu, xong thoắt cái lật lại như cũ. Hai bố con cùng ngắm nhì bông tuyết lãng đãng rơi quanh chú chim. Tôi nghĩ con chim ở trong đó thật lẻ loi, nên lấy làm lo cho nó. Nghe tôi thổ lộ, bố mới bảo: Susie ơi, con đừng lo. Đời nó sung sướng lắm. Nó bị giam hãm, nhưng trong một thế giới hoàn mỹ đấy, con ạ...". *** Alice Sobold sinh ngày mồng 6, tháng Chín, năm 1963, tại thành phố Madison, tiểu bang Wisconsin, là tác gia Mỹ nổi tiếng nhờ hai tác phẩm Lucky (May Mắn) và The Lovely Bones (Hình hài yêu dấu). Thời còn đang theo học tại đại học California, thành phố Irvine, bà viết May mắn, cuốn tự truyện kể sự việc bà từng bị cưỡng hiếp và may mắn thoát chết ở tuổi vị thành niên. Sau khi May mắn được xuất bản vào năm 1999, Sebold tiếp tục sự nghiệp viết văn. Bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hình hài yêu dấu vào năm 2002, và đón nhận thành công vang dội. Với tác phẩm này, năm 2004 Alice Sebold đã giành giải sách đọc hay nhất trong năm. Richard and Juky Best Read Away, do British Book Awards trao tặng, năm 2003 nhận giải thưởng Sách trong năm của thể loại Văn học người lớn, do hiệp hội các nhà sách Mỹ trao tặng, và năm 2002 là giải Bram Stoker cho Tiểu thuyết đầu tay.    Mời các bạn đón đọc Hình Hài Yêu Dấu của tác giả Alice Sebold.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Đứa Con Đi Hoang Trở Về
Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… Mã hàng 8936144200254 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả André Gide NXB NXB Văn hóa văn nghệ Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 100 Kích Thước Bao Bì 12 x 18 Số trang 68 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Đứa con đi hoang trở về của André Gide khởi nguồn cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh Tân ước. Với một sự triển khai đa chiều, André Gide đưa vào đó bốn cuộc đối thoại, như một vở kịch bốn màn, kéo câu chuyện khỏi không gian của bản kinh giáo điều để nối kết với cuộc sống nhân gian vốn dĩ phức tạp. Qua Ngôi Nhà và khát vọng tự do, chọn lựa phiêu lưu của tuổi trẻ và sự trở về kiếm tìm cứu rỗi nơi một con người đã nếm trải gió bụi lạc lối… André Gide mở ra các cảnh huống triết lý mà ở đó, có thể mỗi người đọc đều đã từng “nhập vai”. Về tác giả ANDRÉ GIDE (1869-1951) Là nhà văn Pháp; nhận giải Nobel Văn học năm 1947. André Gide sinh ra tại Paris, trong một gia đình trung lưu theo đạo Tin lành. Cha là giáo sư Luật học, mất sớm. Gide lớn lên trong một không gian khá cô lập ở vùng Normandy, với sự giáo dục khắc kỷ của người mẹ. Sau những chuyến du hành sang Bắc Phi (từ 1893-1894), ông rơi vào cuộc dằn vặt tinh thần khi nhận ra mình đồng tính luyến ái.  André Gide ấn hành tác phẩm đầu tiên năm 22 tuổi, có tựa: Những cuốn vở của André Walter. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt: Bọn làm bạc giả, Dưỡng chất trần gian, Kẻ vô luân, Trường học đờn bà,… *** ĐỨA CON ĐI HOANG TRỞ VỀ - Review từ bạn Twineaquarius (Goodreads) "Con người ta cần có một mái nhà nghỉ đầu trong đó. Kiêu căng nào! Con tưởng ngủ giữa gió lặng được sao?" "Vì tôi đây sống trong vòng trật tự; cái gì khác với trật tự đều là kết quả của kiêu căng hoặc mầm mống của kiêu căng" #Đứa_con_đi_hoang_trở_về #AndréGide Lấy cảm hứng từ dụ ngôn Đứa con hoang đàng trong Kinh thánh Tân ước, André Gide viết Đứa con đi hoang trở về với góc nhìn đa chiều hơn những điều Kinh Tân ước đưa ra trong dụ ngôn. Gần gũi, thực tế và quan điểm của mỗi nhân vật trong dụ ngôn đều được André Gide thể hiện trọn vẹn qua bốn cuộc hội thoại giữa Đưa con đi hoang và gia đình. Dụ ngôn Đứa con hoang đàng được ghi và để truyền giảng vào Thứ Bảy sau Chúa nhật II Mùa Chay, nhằm nổi bật lên Thông điệp Tình yêu và ân điển của Thiên Chúa được ban cho vô điều kiện (trích wikipedia). Dụ ngôn không đề cao việc một người chăm chỉ ngoan đạo làm ăn, hết lòng vì "ngôi nhà" (người anh cả), mà để cao hành động quay đầu lại trong ăn năn hối cải thì sẽ được hưởng sự bao dung. Có lẽ dụ ngôn có khá nhiều điểm tương đồng với một xã hội đề cao nền tảng gia đình của người Châu Á. Đối với tác phẩm Đứa con đi hoang trở về của André Gide, ngoài câu chuyện chính về sự trở về của Đứa con (Đãng tử), với bốn phân đoạn hội thoại giữa Đãng tử với Cha, Anh cả, Mẹ và Người em là câu chuyện của Đãng tử với quyết định ra đi, là cái nhìn của mỗi người với hành vi từ bỏ "ngôi nhà" của Đãng tử. Về phần này André Gide còn thành công hơn cả khi khiến mình phải suy nghĩ nhiều về hình ảnh Đứa con vì sao muốn ra đi, vì sao sống trong sự chở che của "ngôi nhà" nhưng anh lại quyết tâm từ bỏ, vì sao quãng đời từ bỏ anh lại quay về, và khi quay về điều gì khiến anh ăn năn hối hận với quyết định đó. Mình cực thích phân đoạn hội thoại giữa người em và Đãng tử. Nó giống như sự tiếp nối, nhưng ở một phương diện trọn vẹn hơn. Ví như Đãng tử mang toàn bộ tài sản được chia cho để ra đi thì người em lại sẵn sàng "ra đi không có gì hết", và chính vì như thế lại có khi hay hơn. Hình ảnh Đãng tử nhìn về Khu vườn nơi an nghỉ của họ hàng và Hình ảnh Người em kêu Đãng tử dìu ra khỏi cửa, mang theo "tất cả hy vọng của anh" thực sự khiến mình cảm động. Bởi mình cảm thấy giống như việc bao bọc được chuyển biến thành tin tưởng, như việc giao cho người ta cần câu chứ không phải con cá. Từ sự trở về của Đãng tử đến bước ra đi của người em là hai thế hệ, hai luồng tư duy hoàn toàn khác và tốt lên rất rất nhiều. Thêm một phần nữa ấy là lời bạt của dịch giả Bửu Ý cũng quá ấn tượng. "Trở về là thất bại của đứa con đi hoang, nhưng là một thất bại động lòng người... Có ra đi, đến khi trở về, hắn mới biết mình không phải là người sinh ra cho những cuộc ra đi...Hắn bây giờ hy vọng cho người khác." Phải nói đọc Đứa con đi hoang trở về mới thấy đôi khi giá trị một cuốn sách không nằm ở việc thậy dày, thật nhiều trang nhiều chữ. Một cuốn sách cực mỏng, có khi chỉ cần 15p đọc nhưng lại mang đến quá nhiều tư tưởng hay ở trong đó. Đúng là đáng đồng tiền bát gạo mà!" ***     Image Tôi vẽ lại đây, thể theo niềm vui thầm kín của mình, tương tự như ngươi đời thực hiện trên các họa bản tam bình, lời ngụ ngôn mà Đức Chúa Giêsu đã truyền thuật cho chúng ta. Mặc đôi đường hứng cảm sinh động lòng mình phân tán trà trộn vào nhau, tôi không tìm cách minh chứng một đấng nào vượt thắng tôi - mà cũng không minh chứng rằng tôi vượt thắng. Song le, nếu độc giả buộc tôi có lòng hiếu hạnh, cũng có thề độc giả sẽ không hoài công tìm kiếm lòng hiếu hạnh ấy trong bức tranh tôi, nơi đây khác nào người tặng tranh tại vị ở góc tranh, tôi đã phủ phục quỳ gối, đối diện với tên đãng tử, giống như nó, tươi cười mà mặt đầm đìa nước mắt. Image Đứa Con Phóng Đãng   Sau một thời gian vắng mặt lâu dài, mỏi mệt theo cao hứng nhất thời và chừng như đã qua thời luyến ngã, thằng con phóng đãng, giữa tình cảnh xác xơ mà hắn chọn tìm, chạnh lòng nhớ tới nét mặt cha, nhớ căn buống ấy, một căn buồng không chật hẹp, nơi mẹ đến lom khom trên giường hắn, nhớ khuôn viên tưới mát bằng nước chảy thông, nhưng bịt bùng, mà hắn luôn muốn thoát ra, nhớ người anh cả cần kiệm hắn chẳng hề yêu, nhưng người anh trong khi chờ đợi hiện còn nắm giữ phần của cải mà hắn vì phóng đãng nên không thể tiêu pha – thằng con nhìn nhận chẳng tìm được hạnh phúc mà cũng khó thể kéo dài lâu thêm cơn mê say này nữa mà hắn truy tầm đền bù lấp vào hạnh phúc khiếm khuyết.— Hỡi ôi! Hắn nghĩ, ví thứ ban đầu cha ta giận dỗi ngỡ ta chết mất rồi, e có lẽ, dù ta có tội đấy, người cũng hoan hỉ thấy lại ta chứ lẽ nào. Ôi! Về lại với người vô cùng bé nhò, vẩng trán ta gầm xuồng phủ đầy tro than, nếu ta cúi đầu trước mặt người, thưa gửi: “Lạy cha, con trót phạm tội nghịch ý trời ý cha”, ta sẽ xứ trí ra làm sao đây nèu người đưa tay nâng ta dậy, bảo: “Vào nhà đi con”, làm sao?... Thế là đứa con bắt đầu nhắm đường đi tới, thiện tâm từ tính. Image   Khi khuất bóng ngọn đồi, đáo cùng hắn nhác thầy lớp lớp mái nhà khói tỏa, ấy là về chiều; nhưng hắn còn đợi bóng đêm hầu che đậy phần nào cảnh cùng xúc của mình. Hắn nghe ra xa xa giọng nói người cha; gối quỵ ngã: hắn vật mình lấy tay che mặt, bởi tủi hổ thấy mình tủi hổ, đành rằng hắn là con chính thức. Hắn đói; trong nếp áo bành tô thủng nát, còn đâu vỏn vẹn nẳm hạt dẻ ngọt bùi hắn quen dùng làm lương thực, giống y như đàn lợn con hắn chăn giữ. Hắn hình dung những đồ gia vị bữa ăn khuya. Hắn nhận ra mẹ đi tới trên thềm... Không kềm lòng được nữa, hắn chạy dốc xuống đồi, tiến vào sân nhà, con chó không nhận ra hắn, lên tiềng sủa. Hắn muốn ngỏ lời cùng bọn nô bộc, nhưng bọn này nghi ngại lánh xa, đi thưa báo cho chủ; đây ông chủ. Có lẽ ông vẫn trông thằng đãng tử, vì ông nhận hắn ra ngay. Ông giang tay; đứa con trước mặt bây giờ sụp gối, và cánh tay bưng lấy trán, hô hoán cùng cha, hắn đưa bàn tay mặt hướng tới lòng ân xá: - Lạy cha! Lạy cha, con phạm trọng tội nghịch ý trời ý cha; con không còn đáng được cha gọi tới tên; nhưng may ra, cầm bằng như đứa tôi tớ, tôi tớ mạt hạng, cha hãy rủ lòng cho con sống trong xó nhà... Người cha nâng hắn dậy và vồn vã: - Con của cha ôi! trời run rủi cho ngày con vể lại với cha! - và niềm vui sướng của người, rào rạt tràn lòng, chảy thành nước mắt; người cứ đẩu lên khỏi vầng trán con, người hôn lên đó, quay sang bọn gia nhân: - Chúng bây đem chiếc áo nào đẹp nhất ra đây; đi giày vào chân cho cậu, đeo nhẫn quý vào ngón tay cậu. Chúng bây tìm trong các chuồng coi con bê nào béo nhất làm thịt; sửa soạn một bữa lạc yên, bởi đứa con trước kia ta bảo từ trần nay còn sồng. Và vì tin đã lan truyền, người cha chạy đi, không chịu để một ai khác nói: - Mẹ nó ơi, đứa con ta khóc thương đã được trả về cho chúng ta. Niềm vui của hết thẩy mọi người dâng dậy tựa hồ khúc nhạc khiến người con trưởng đăm chiêu. Anh ngổi chung bàn ư, là bởi tại người cha mời mọc hối thúc anh buộc lòng anh ngói đây thôi. Mình anh giữa đông đủ thực khách, vì cho chí tên tội tớ hèn mọn nhất cũng được mời vào, anh để lộ vầng thiên đình thịnh nộ: đối với tên hối tội, cớ sao lẳm vinh dự thế này hơn là đối với chính anh, là kẻ chưa từng phạm tội? Anh chuộng trật tự nghiêm minh hơn tình yêu thương. Anh chịu ra mặt trong bữa tiệc, chẳng qua là vì, nhượng thằng em, anh có thể cho nó vui mượn một tối; phương chi song thân cùng hứa với anh ngày mai sẽ khiển trách tên phóng đãng và chính anh cũng sẵn sàng thuyết giáo nó nghiêm túc. Các đuốc lửa thở khói lên trời. Bữa ăn đã tàn. Bọn gia đinh dọn dẹp xong. Bây giờ; trong đêm khuya không có lầy một hời thoảng vào trối dậy; ngôi nhà mê mỏi, người lại người, sẽ ngủ nghê. Song, bên trong căn buồng kê cận buổng tên phóng đãng, tôi biêt có một đứa con, thằng em nó, trọn đêm chí hừng sáng, sẽ không tài nào dỗ giấc.   Mời các bạn đón đọc Đứa Con Đi Hoang Trở Về của tác giả Andre Gide & Bửu Ý (dịch).
Mùa Hè Đỏ Lửa
Mở đầu Mùa Hè Ðỏ Lửa, nhà văn Phan Nhật Nam viết: Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Ðã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Ðông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Ðất Ðỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. *** Theo tự thuật, vào thời điểm khởi thảo - tháng 04 năm 1972, tác giả theo Lữ đoàn II Nhảy Dù đổ bộ xuống đồi Charlie (nơi được lính đặt biệt danh "nồi cơm điện National" vì mức độ quyết liệt) nhằm cắt đứt tuyến tiếp tế qua quốc lộ 14 của các sư đoàn cộng quân. Sau đó, nhân vật xưng Tôi lại theo nhiệm vụ tiếp ứng Tiểu đoàn I Thủy Quân Lục Chiến giải phóng quốc lộ 1 và toàn tỉnh Quảng Trị tới hết tháng 03 năm 1973. Tác phẩm được gửi in tại nhà Sáng Tạo ở đô thành Sài Gòn trong năm 1973 và liên tục được các san hành xã khác nhau tái bản, trở thành ấn phẩm chiến tranh ăn khách và gây ấn tượng nhất thập niên 1970 ở cả hai miền Việt Nam. Tới thời điểm 30 tháng 04 năm 1975, các nhà in này thậm chí chưa thanh toán hết nhuận bút cho tác giả. Sau sự kiện 30 tháng 4, Mùa hè đỏ lửa cùng mọi tác phẩm kí danh Phan Nhật Nam bị đem ra đường phố đốt trong "chiến dịch bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy" năm 1978. Tuy nhiên, những ấn bản khác vẫn tồn tại ở nhiều thư viện tư thục nên nội dung không hề mai một theo thời đại. Ở thập niên 1980, tác phẩm lại được các nhà san hành hải ngoại cho tái xuất cả nguyên bản và dịch bản, đồng thời nội dung được đưa vào tàng trữ tại thư khố Đại học Michigan. Đến năm 1998, nhân kỉ niệm Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tác giả Phan Nhật Nam bổ sung trong bản in mới các bài tựa để củng cố chiều sâu tác phẩm và tới nay được công nhận là bản lưu hành chính thức. Trước khi Mùa hè đỏ lửa phát hành, tác giả Phan Nhật Nam đã được đánh giá là một trong những cây bút thượng hạng trong giới văn chương về đề tài chiến tranh. Nhưng ngay khi công bố, tác phẩm đã gieo những kinh ngạc trong báo giới về doanh thu và phải tái bản 30 lần để đáp ứng nhu cầu độc giả. Thành công vang dội này đem tên tuổi ông ra quốc tế, đồng thời, nhan đề tác phẩm về sau được coi là định danh phi chính thức của chuỗi chiến dịch Xuân Hạ 1972 trong các văn bản khoa học. Còn theo nghiên cứu gia Vương Trí Nhàn, từ những năm trước và sau sự kiện 30 tháng 04 năm 1975, tác phẩm Mùa hè đỏ lửa cùng một số ấn phẩm khác của tác gia Phan Nhật Nam đã được các nhà văn khoác áo lính ngoài Bắc tìm đọc khi có cơ hội vào thành thị miền Nam. Riêng với tác phẩm Mùa hè đỏ lửa, Phan Nhật Nam đã trở thành một vấn đề văn học thời chiến, gây nên những tranh luận sôi nổi trong giới văn bút Hà Nội từ thập niên 1970 mãi tới những năm 2020. Ngày 04 tháng 03 năm 1973, tác giả Phan Nhật Nam tới phi trường Lộc Ninh chứng kiến lễ trao trả tù binh với tư cách kí giả quân sự[3]. Theo lời khuyên của hai bạn văn Nguyễn Văn Thành và Đỗ Ngọc Yến, ông đem theo cuốn Mùa hè đỏ lửa. Tại đây, trước mặt 30 phóng viên quốc tế, ông gặp kí giả Bùi Tín (tư cách phóng viên báo Nhân Dân) và cho ông Bùi Tín coi bức ảnh in trong Mùa hè đỏ lửa để chứng minh vụ thảm sát Huế. Sau cuộc gặp này, ông bị phạt 60 ngày trọng cấm vì tội "phát biểu bất lợi cho quốc gia và phổ biến tác phẩm bất hợp pháp". Sự kiện này về sau cũng được kí giả Bùi Tín xác nhận. “    Phan Nhật Nam viết liên tiếp sáu cuốn ký về chiến tranh. Đọc những điều ông kể, người dân nghe chuyện lính cũng lây luôn cái phẫn nộ, cái uất hận của ông. Lòng nào nghĩ đến cái "văn" trong những tác phẩm như thế. Mười lăm năm của một người lính Nhảy Dù, ông làm lính xứng đáng. Mười lăm năm trong lao tù cộng sản, ông làm một tù nhân can trường. Văn nghiệp mười năm của ông phản ảnh chỗ nhiệt tâm dũng mãnh, can trường, trong cuộc sống ấy. Cái "văn" của ông là ở đó.    ” — Võ Phiến, Văn học Miền Nam: Tổng quan, California, Mĩ, 1987 Tác phẩm được trao Giải thưởng phóng sự chiến trường năm 1973. *** CHƯƠNG1   LỜI TÁC GIẢ Mùa Hè, những cơn mưa bất chợt ùn ùn kéo đến, ào ạt chụp xuống núi rừng Kontum, Pleiku... Trời thoắt trở lại xanh, cao khi mưa dứt, nắng hanh vàng ấm trong không khí gây gây lạnh, những đồi cỏ xanh dọc Quốc Lộ 14 bắt đầu óng mượt, cánh cỏ non lớn dài phơi phới dưới sau trận mưa đầu mùa và thung lũng xa vàng rực hoa hướng dương. Không khí, gió, trời mây và cỏ cây thay đổi hẳn, mới mẻ toàn khối, toàn sắc, vùng cao nguyên lộng lẫy, triền miên với từng hạt nắng vàng ối tan vỡ trên đồng cỏ xôn xao gió thổi... Mùa Hè, gió Lào miền Quảng Trị, Thừa Thiên thổi từng luồng, từng chập, đưa “con trốt” chạy lừng lững trên cánh đồng cát chói chang, những đồi hoa sim, hoa dủ dẻ rung rinh bốc khói dưới mặt trời hạ chí. Giòng nước sông Hương, sông Đào, sông Bồ, Mỹ Chánh, Thạch Hãn đục hơn, thẫm màu hơn, lăn tăn từng sợi sóng nhỏ len lỏi khó khăn qua kẽ đá, bãi cát, chầm chậm chảy về phía Tam Giang, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa. Mùa Hè, những con đường thành nội Huế lốm đốm ánh trăng xuyên qua cành lá, cô gái chuyển tấm lưng sau lớp tóc dài dày kín, nâng khối tóc xôn xao lên khỏi chiếc gáy để cơn gió ngắn len qua hàng rào chè xanh thổi khô đi lớp mồ hôi rịn trên những lông tơ nõn. Mùa Hè, mưa rào tăm tắp đổ xuống kín trời An Lộc, chập chùng ẩn hiện những thân cây cao su nhoà vào nền trời xám tối, khu rừng biến thành khối đêm đen trong khoảng khắc, khối đen chuyển dịch, vẫy vùng ào ạt theo từng cơn lốc gió... Mưa tan, trời tạnh, ánh trăng lạnh nhô lên từ phương tây, cuối bình nguyên lồng lộng, núi Bà Đen ấn một nét đen thẫm thần bí trên nền trời xanh ánh trăng. Và đàn nai bắt đầu tung tăng từ đầu nguồn, cuối lạch... Đàn nai chạy vun vút qua rừng cây, trên đồng cỏ mượt sóng, chạy và ngừng lại, “bép” mấy tiếng âm u cùng ánh trăng chập chờn trên sóng cỏ. Mùa Hè, mùa đẹp đẻ, tươi gắt căng sức sống, ngày ngày nỗ lực trên mặt nước loáng ánh nắng hay đồng lúa nặng hạt. Hạt ngọc của trời, và người dân cất cao tiếng hò... Được mùa chớ phụ môn khoai, Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng... Tiếng hò chạy dài trên lúa, theo cơn gió đưa ra đến đầu ghềnh, cuối cửa sông, tan biến vào cùng sóng nhỏ... Trên mặt nước, con đò xuôi về Thế Chí, Đại Lộc dọc Phá Tam Giang(*)), lại vang dội một giọng hò khác phảng phất nét tàn tạ bi thảm của hơi Nam Ai thê thiết... Hò... ơ... ai...về...ạ... ạ... Đại...Lộc...ạ... ạ... ai vượt... ạ..ơ..Kế Môn... (*): Phá lớn giữa hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, do ba sông Thạch Hãn, sông Bồ và Sông Hương đổ vào. Đã từ lâu...Lâu lắm, người dân của ba miền đã qua những mùa hè trong cạn đáy khắc khoải để hy vọng tiếp tục đời sống với mơ ước chỉ đầy chén cơm. Nhưng mùa Hè năm nay, 1972 tất cả hy vọng và mơ ước nhỏ nhoi tội nghiệp kia tan vỡ trong tận cùng kinh ngạc. Bao năm qua, chiến tranh đã quá nặng độ, chiến tranh quá dài, dài thê thảm, dài đau đớn tràn ngập. Người dân Việt mong mỏi đi qua thêm một mùa, một năm, chiến tranh lắng dịu và được sống sót. Nhưng, 30 tháng 3 ở Đông Hà, 24 tháng 4 ở Tân Cảnh, 7 tháng 4 ở An Lộc, 1 tháng 5 cho Huế và Quảng Trị... Hoài Ân, Tam Quan, Bồng Sơn, Bình Giả, Đất Đỏ... Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm. Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm khốn cùng. Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân(**), cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Mùa Hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày! (**): 1945; 1968. Viết lại, Ba sư đoàn bộ binh 304, 308, 324B, cùng sáu trung đoàn địa phương của Khu 5, ba trung đoàn chiến xa, hai trung đoàn đặc công và một sư đoàn pháo nặng 130 ly, cho mặt trận Trị-Thiên. Ba sư đoàn 5, 7, 9, tăng cường sư đoàn Bình Long, hai trung đoàn 202 và 203 chiến xa, được yểm trợ bởi một sư đoàn pháo nặng tại mặt trận An Lộc. Hai sư đoàn 320 (Thép) và Sao Vàng, một trung đoàn chiến xa tấn công vào Tân Cảnh, Kontum; hướng tiến được dọn đường bởi một trung đoàn pháo đặt từ rặng Big Mama Mountain, vùng Ba biên giới Việt-Miên-Lào. Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những “ngày hè đỏ lửa”, trận cuối cùng để tìm kiếm kết thúc cho mười năm chiến tranh “giải phóng” cạn lực, sau “tổng-công-kích thất bại Mậu Thân 1968”. Quân ta phải chống lại.Chống giữ để tự vệ. Chống trả nơi biên giới cuối cùng: Tự Do hay Nô Lệ. Sống hoặc Chết. Trận đấu quyết tử và trận chiến cực điểm. Ba tháng hay 100 ngày chiến trận, những kỷ lục chiến trường thay đổi từng nấc, từng bậc lớn, từ 2,000 quả đạn cho cứ điểm Charlie, Kontum đến 8,000 quả cho An Lộc.Bắc quân đi bước tàn nhẫn không nương tay và quân dân Miền Nam đồng đương cựvới nổ lực cao nhất tại “Điểm đứt hơi - Điểm vỡ của chiến trận”. Chúng ta đã chiến đấu giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Hôm nay, ngày đầu tháng 8, cuộc đại chiến đã bước qua tháng thứ tư, và có cơ kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng quân dân ta cắn răng, ngậm chặt, hứng hết tai họa, đựng đầy khổ nạn... Chịu thêm nữa cũng thế, đánh thêm nữa cũng được. Trong nguy nan, Dân tộc biến thành “Thánh chịu nạn”. Dân tộc kiêu dũng, quật cường, vượt qua, bất chấp tất cả để tồn tại. Ngọn lửa Mùa Hè 1972 nung độ nóng cao nhất trui rèn chúng ta - Người Việt Nam muốn sống đời đáng sống của Người - Người Tự Do. Được đi, chứng kiến và dự phần vào ba mặt trận, ba vùng đất quê hương, người viết không mong gì hơn ghi lại một vài khía cạnh của cuộc chiến - Cuộc chiến vĩ đại vượt mọi chiến tranh - Mà phải một ủy ban quân sử, trong thời gian dài mới có khả năng, điều kiện thâu tập và đúc kết toàn thể. Vì chỉ ghi được biến cố qua một vài khía cạnh, với những người, đơn vị lâm chiến quen thuộc; người viết xin tạ lỗi do những thiếu sót mà một cá nhân không thể nào tránh khỏi, và đã phải viết lại từ một khoảng ngày tháng quá gấp rút. Ngày Quân LựcVNCH, Tháng 6, 1998. Mùa Hè, Đất Mỹ. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Đỏ Lửa của tác giả Phan Nhật Nam.
Dựa Lưng Nỗi Chết
Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.
Dấu Binh Lửa
Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn Dấu Binh Lửa (1969). Tiếp theo là các tác phẩm: Dọc Đường Số Một, Ải Trần-gian (1970), Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Dựa Lưng Nỗi Chết (1973) và Tù Binh và Hòa Bình (1974). Những tác phẩm của ông đều lấy Chiến tranh Việt Nam làm bối cảnh. Sau 1975, ông bị bắt giam vào trại tập trung cải tạo 14 năm (1975-1989). Trong nhiều lần bị biệt giam hàng năm trời trong hầm tối, ông cũng làm ra nhiều bài thơ. Tuy sau ông được thả, nhưng lại bị quản chế tại gia ở Lái Thiêu, Bình Dương. Năm 1993 ông sang Mỹ định cư và cho ra mắt những tác phẩm: Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa-xăm (1995), Đêm Tận Thất-thanh và Mùa Đông Giữ Lửa (1997). Năm 2002 cuốn Những Chuyện Cần Được Kể Lại được phát hành với ấn bản tiếng Anh dưới tựa The Stories Must Be Told. *** Theo lời dặn của C— Anh cố vấn văn chương— Tôi phải viết một cái tựa thật hách, ngắn, cô đọng và hay ho không chịu được... Nhưng viết thế nào để có thể gọi là " hách"? Thôi, tôi mở đầu bằng cách bày tỏ nguyên do đồng thời đề biện hộ cho những dòng viết ở những trang sau. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không thể ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh gia. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Bao nhiêu năm làm văn nghệ, cũ như Lê Văn Trương, Đinh Hùng, mới như Quách Thoại, đến khi chết đi thì cũng chẳng còn gì - Thế Phong đó - anh chàng làm văn nghệ như một gã tiền phong, "Nửa đường đi xuống" phải đóng bộ ka-ki độ nhật qua ngày với tờ báo của Không Quân. Thế nên tôi chẳng hy vọng gì ở cái "nghề của chàng" nữa. Nhưng vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha. Tôi đâu phải là hoàng tử văn chương ngoại hạng, xem chuyện viết lách như một công việc nghiêm trang giữa người và thế giới bí ẩn của chữ nghĩa, viết đối với tôi đúng ra chỉ là một cách thoát hơi— Viết để khoỉ ấm ức bực mình. Sau tám năm ở lính, thời gian thoải mái thật hiếm hoi, những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn dấu hình như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão. Đôi khi tôi thấy thật yêu cái nghề này, nó tạo cho con người tính kiên nhẫn, lòng vị tha, chế ngự những hèn mọn của mình. Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó thật tệ, không có một nghề nghiệp nào ù lì, cứng đọng và thụ động bằng " đi lính ", chỉ cần thừa hành trong một giới hạn thật sít sao, thế là đủ. Có nhiều lúc tôi muốn ném tung hết tôn ti trật tự, bộ quần áo trên người để thong dong giang hồ một chuyến tự do, nhưng đồng thời cũng vừa khám phá, đang bị buộc chặt, đã quen với đời sống này. Thật khó khăn khi phải nói chuyện với một anh dân sự, hình như tôi và hắn ta ở hai thế giới thật khác xa nhau. Tôi cũng muốn viết về đời sống lính với những con người thật lạ. Năm 1966, có gã lính thật trẻ ở đại đội tôi, hắn ta thấp bé da xanh mướt ốm yếu, nhưng uống rượu kinh khiếp, hai lít rượu đế hắn uống tỉnh bơ, hình như rượu không tạo nên phản ứng nào trong người. Ngoài cuộc rượu, y bình lặng kín đáo như một con ốc. Một hôm đứng gác, sẵn súng ở tay, hắn bắn vào đầu tự vận. Tôi không biết nỗi thất vọng kinh khủng nào trong đầu một thằng bé 19 tuổi. Đức " điên " Biệt động quân, quan Ba, Tiểu đoàn phó, đi hành quân mang khẩu M.79 chạy trước hàng lính, về Sài Gòn đi chơi, mặc một chiếc áo bà ba đen, dưới quần lính, chân mang dép Nhật, trang bị thêm một con dao đi rừng. Tôi không hiểu nó nhìn đời thế nào qua cặp kính trắng dày cộm khi trên người trang bị với phụ tùng như thế. Đại khái ở lính có những loại người " bất bình thường " như vậy, và trong đám bất bình thường trên lại chen lẫn vài kẻ bình thường thật kỳ quái. Thiên, anh chàng đi theo tôi trong hai năm, một ngày chỉ nói khoảng hai mươi tiếng: dạ, vâng... Thế là hết. Nó ở xa, tôi gọi đến vỡ phổi không tiếng trả lời, lát sau lặng lẽ đi đến. " Tao kêu mày có nghe không?..". " Dạ có ". " Thế sao mày không trả lời? ". Thiên bóp bóp hai bàn tay đứng im. Thấy những người lính khác bắt gà, nó cũng bắt một con treo trên ba-lô, đi một đoạn vắng người, thả chạy, xong làm dấu Thánh giá đọc kinh. Đi lính tôi có nhiều "thế" sống thật đặc biệt. Chiều 29 Tết năm 1963 ởchân đèo Rọ Tượng, Khánh Hòa, căn cứ Lầy, trời rét như cắt ruột, mưa phùn bay mù mịt, chúng tôi đứng trong nước sình ngập đến ngực, lạnh, đói, đã gần năm ngày liên tiếp mình mẩy không bao giờ được khô. Dân chúng đi từ Ninh Hòa về Nha Trang tưởng chúng tôi là tù binh, ném bánh ú từ trên xe xuống cho, một vài bà già chấm nước mắt khóc vì thương hại. Nhưng chúng tôi vẫn vui như tết, Năng và tôi nhặt bánh ú ngồi ăn ngon lành, cả hai đứa đều là những " Tân Sĩ Quan " vừa quỳ xuống đứng dậy cách đây một tháng để lãnh nhiệm vụ gánh vác non sông! Chúng tôi hãnh diện với nỗi cực khổ của mỗi phút chịu đựng, lòng không một chút ta thán... Nhưng lúc gặp nhau ở Sài Gòn, hai thằng đem nhà binh ra nạo đến sát ván không chút nể nang. Bình Giã đói và khát hai ngày đến nỗi lính phải hút nước ở rễ cây, có tên uống phải rễ cây độc đứng tim chết. Kéo quân ra Phù Mỹ, uống một nón sắt nước ruộng nhưng lòng không phiền hà. Mười chín tháng Ba 1965 kéo về Sài Gòn đóng ở Đài phát thanh, cô-ca lạnh mát nuốt vào khó khăn không làm dịu được nỗi oi ả ở trong lòng. Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Thấy mình tội nghiệp lạ lùng. Rồi kết quả ra sao? Coi chừng lại bị đụng chạm, lôi thôi với chính phủ thì thật là khốn nạn! Người lính đánh máy hộ cảnh cáo. Trong thời gian sau này, thường thường những giấc mơ của tôi cuối cùng dẫn đến một chủ đề - Nước. Tôi mơ thấytrời mưa, mơ thấy được tắm trong dòng suối, được vùng vẫy trong sông lớn. Kỳ cục hơn có hôm tôi mơ bị mắc cạn trong cống rãnh. Về mặt sinh lý người ta bảo đó là hiện tượng yếu thận, tâm lý bảo đấy là ý định muốn giải thoát— Có thể đúng như vậy, vì tôi đang yếu thận đồng thời luôn luôn có cảm giác "lạ" với đời sống này. Tôi không coi những ngày đang sống là sống thực. Sống bây giờ là sống gởi, cõi mơ ước nào đó mới là quê hương thật. Nhưng đúng chỉ là mơ ước, vì còn một nơi chốn nào khác ngoài cuộc đời ngặt nghèo này— Chỉ còn một cõi trong tôi. Nhưng thôi, "tác phẩm" khi đã xong có phần đời của nó - hai mươi sáu tuổi - tám năm lính để lại gia tài trăm trang giấy! Có một vị đắng ở đầu lưỡi. Nhưng nói cùng ai? Tôi cũng trốn tôi trong câu hỏi này. Tuy nhiên khi viết xong, đọc lại thấy vừa lòng nhưng đồng thời một vài ý nghĩ thật lạ xảy đến. Những ý nghĩ trong chiều mưa, mưa thật lớn trên đồi cao, gió thật mạnh, doanh trại vắng vẻ như bãi tha ma. Ngồi một mình nhìn ra khoảng không gian xám đặc... Con chim sẻ trốn mưa bay vào phòng đậu trên thành giường, sù lông rũ nước kêu lên những tiếng nhỏ thật cô đơn. Tôi cũng như con chim nhỏ trong chiều mưa này. Và từ đó thấy trong lòng những tình lạ thật thiết tha, hồn hậu như của những ngày vừa mới lớn. Tôi thấy những điều viết quá hằn học, nhiều thù hận và độc đoán. Trước tiên đối với người Mỹ. Những sự kiện gần đây, cảnh hai phi hành gia bước chập choạng trên mặt trăng. Những bước đi đầu tiên của con người trên một hành tinh khác. Lẽ tất nhiên tôi không a dua theo một phong trào để hoan nghinh sự thành công của Apollo 11, đã từ lâu tôi không xem trọng thí nghiệm này. Chỉ có cảm phục khi nghĩ đến những công tác khoa học tinh vi và chính xác để ráp nối phi thuyền mẹ với Nguyệt xa, tiếng nói của những phi hành gia được chuyền thẳng về trái đất rõ mồm một. Trước thành công như trên làm sao tôi không hoan nghênh? Nhưng tổng quát tôi vẫn không thán phục, kết quả cũng không có gì cụ thể để giúp ích cho một khối dân khốn cùng nằm dài trên hai cõi Á, Phi. Trong khổ cực của quê hương này tôi không thể nào quá ngưỡng mộ thành công ở trời xa. Nhưng tôi chịu nhất là thái độ phóng khoáng, cử chỉ hào hiệp của người Mỹ trong vụ này, họ đã hãnh diện dưới danh nghĩa — Một sự tiến bộ của nhân loại. Sự rộng rãi này làm cho tôi kính phục. Ngoài ra một hôm có việc cần phải vào bệnh viện 3 Dã chiến Hoa Kỳ, thấy một anh lính Mỹ đẩy chiếc xe trên có một anh khác bị thương ở chân, anh chàng đẩy xe cũng là thương binh, gầy ốm, tóc vàng hoe mọc dài xuống gáy, mang đôi kính cận thị dày cộm, nét mặt hồn nhiên và treœ thơ. Và tôi đã nghĩ rằng khuôn mặt trẻo thơ đó, nếu đem biến thành đối tượng cho những nhận xét hằn học đầy thù nghịch của tôi thật đáng tội nghiệp. Chiến tranh đã kéo y qua đất nước này, chịu đựng những khổ cực vượt ra ngoài ý niệm của người Mỹ, nay bị thương đôi mắt vẫn còn trong sáng và trẻ thơ — Dấu hiệu của tâm hồn chưa bị vấy bẩn bởi cuộc chiến này. Nhìn sự ngây thơ trung thực đó, nghĩ đến những phán đoán của mình quả độc đoán và quá độ. Gần hai năm nay, mỗi ngày phải uống tám viên Nevrosvitamin 4 để làm dịu xuống những bứt rứt hiện thành phản ứng không kìm hãm... Thiếu những viên thuốc đỏ đó, người tôi như nung trên một lò lửa đang đỏ, đầu óc muốn nổ tung, chân tay ít nhất phải đập phá một vật gì, tôi sợ tiếng động và chốn đông người một cách bất thường. Nhưng hai tháng sau này tôi bỏ được nhu cầu uống thuốc đó, suốt ngày đánh trần nằm trên bãi cỏ trước phòng ngủ, doanh trại hậu cứ hoang vắng một cách dễ chịu, phía xa những ngọn đồi Tăng Nhơn Phú chạy dài bình yên. Trong sự bình yên này, đọc lại những điều đã viết quá trớn, thấy ân oán giang hồ, đụng chạm đến nhiều giới. Tôi muốn đưa cuốn sách cho những người nhỏ tuổi đọc, để dò xem phản ứng của những người chưa bị ảnh hửơng cuả chiến tranh, nhưng ngần ngại vì thấy những điều mình viết không trong sáng. Lẽ tất nhiên một cuốn bút ký không thể nào nằm dưới kìm kẹp của ý thức luân lý bình thường được, hơn nữa bút ký về cuộc chiến tranh nhọc nhằn. Nhưng nhìn thấy toàn bộ những điều đã viết chỉ có một nỗi hằn học, uất hận nên tự hỏi rằng có quá đáng hay không? Thấy đàn trẻ đi thi tú tài, nhớ lại mười năm trước cũng ở trong nguồn trong sáng đó, thế tại sao có những đổi thay tàn bạo và quá đáng như kia? Tôi lại gặp Banh, người bạn cũ ở Đà Nẵng, gặp Banh để nhớ lại một cái Tết thật tang thương, hai mươi chín Tết không thức ăn - hai mươi chín tết - thời gian thật khó thể đi kiếm một bữa cơm. Banh đạp xe trên hai mươi cây số về làng quê Quảng Nam xin mươi quả trứng vịt, và hai đứa đã đón xuân bằng những quả trứng trong suốt ba ngày Tết. Gặp Banh để nhớ rằng trong những ngày khốn khó đó, tôi vẫn luôn luôn thắp sáng cho mình ngọn lửa hy vọng và những tình cảm tốt đẹp. Những sự kiện kể trên gây cho tôi cảm giác ngại ngùng khi đọc lại những điều ghi được của tám năm binh lửa. Không lẽ suốt đoạn đời này tôi chỉ có khốn khó và thù hận thôi sao? Từ đó phát sinh ra những ý hướng chối bỏ, như dấu chàm của một niềm tuỉ hổ, và ao ước được thấy điều mình viết mang niềm vui hồn nhiên trong sáng. Nhưng tám năm lính của tôi niềm vui quả thật ít, ít đến tội nghiệp khi đem so sánh với nhọc nhằn đằng đẵng. Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn Âu Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn Lỗ còn có những ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến. Nhưng thôi, có nói hoài thì cũng chỉ kéo dài thêm lời than thở hèn mọn. Điều mong ước là được xóa đi những hằn học và thù hận. Sự đụng chạm nếu có ở một vài đối tượng nào đó thì xin nghĩ rằng đây chỉ là những ý nghĩ của một người muốn chân thật với mình trong hoàn cảnh khắt khe. Lỗi không phải là ở sự thành thật đó. Đây là lỗi của một cảnh đời. Tội của những người trong chúng ta đã bất lực trước định mệnh, để bị cuốn trôi hết tình người — Thôi, đây là tội trong mỗi chúng ta. 10 tháng 9 năm 1969 Long Bình Việt Nam *** Tiếng Việt qủa thần diệu, có những chữ thật đơn sơ cũng đủ sức để tạo thành hình ảnh linh động. Những chữ với âm thanh tầm thường khô cứng như tiếng gõ vô nghĩa trên mặt bàn của một bàn tay nhàn rỗi, trong giây phút trống rỗng. "ở lính" nghe buồn buồn, nhạt nhạt, vô nghĩa nhưng chất chứa chịu đựng ngặt nghèo lặng lẽ. Tôi đã ở lính tám năm, sau thời gian đằng đẵng đó những danh từ to lớn như đầu quân, gia nhập quân đội, người chiến binh, đời quân ngũ hay thời thượng vụng về như tuổi lính, tuổi chiến trường đối với tôi vô duyên như sau lần ân ái ngượng ngùng. Tôi ở lính tám năm, năm nay hai mươi sáu, đi lính năm mười tám. Suốt tám năm của thời lớn lên tôi đem tặng hết cho quân đội, và không phaỉ đến bây giờ vì thất vọng, chán nản do công danh không toại ý, cuộc sống bị ép buộc không đúng như mơ ước nên cay cú hằn học với nhà binh. Không như vậy, tôi đi lính năm mười tám tuổi vào học trường tình nguyện ra làm ông quan Một. Chẳng có ai lôi kéo tôi vào trường ấy, tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng... Chuyển quân đi trong sương đêm, giữa mây mù, ánh lửa mục tiêu đêm đông trong hốc núi hoang vắng, thế giới mạo hiểm giang hồ của Jack London phảng phất đâu đây. Tôi say mê, thích thú với những khám phá mới mẻ đó. Nắng cao nguyên những ngày cuối năm vàng tươi rực rỡ, đứng ở đồi nhìn xuống hồ suối Vàng trong vắt yên lặng... Người như muốn tan vỡ thành muôn ngàn mảnh nhỏ theo cơn gió bay chập chờn qua vùng đồi trùng điệp và loãng tan đi cùng nước hồ xanh ngắt. Cũng phảii nói thật những ngày đầu đời lính của tôi đầy trong sáng và đẹp đẽ. Trong sáng như giấc mơ của tuổi mười chín, giấc mơ mù mờ giăng cánh chim trắng bay chậm rãi qua rừng thông... Nhưng đời sống nhà binh không hẳn chỉ vậy, nó còn có sĩ quan cán bộ, nghi lễ, có đủ những phiền toái hỗn độn mà đời sống dân sự không ai nghĩ ra được; nên khung trời đầy sương mù bí ẩn ngoài khung của sổ hiện ra như một thách thức đối với đời sống kìm kẹp của tôi hiện tại. Đây cũng là một thời gian thật khủng hoảng, mỗi đêm nhìn về phía thành phố đầy ánh đèn tôi không ngủ được, tươœng như có một tiếng gọi cuœa đời sống ơœ bên ngoài quân ngũ đang nhắc nhơœ thúc giục, một đời sống thực sự tôi không có. Từ khung cửa sổ nhìn những giàn đồi im lặng thấp thoáng giữa thung lũng sương mù và đằng xa ánh đèn xanh vườn Bích Câu ma quái, diễm ảo, tôi thấy rõ trong tôi nỗi cô đơn khủng khiếp hiện hình sừng sững. Những lúc ấy tôi thấy được con người thật của mình, một gã trai trẻ, vô định hướng. Những cười đùa ban ngày, những buổi học, bữa ăn tập thể không ảnh hưởng gì đến con người trong tôi. Không thể có được một ý niệm về chuyên môn quân sự mà bằng tất cả mọi cách nhà trường cố nhét vào trong đầu óc. Đội hình tác chiến, cung cách chỉ huy, chi tiết kỹ thuật về vũ khí trôi qua trí não mơ hồ như một cơn gió nhẹ. Hai năm sống ở mái trường đó như một cơn phiếm du. Chỉ thật thắm thiết rung động khi nửa đêm về sáng dưới ánh đèn pha vọng gác kho đạn tôi khám phá được thế giới của cây cỏ đang thở, đang lớn lên. Những giây phút khoảng năm giờ sáng, sau phiên gác, nhìn xuống phòng sĩ quan trực, người lính kèn im lặng đưa lên môi thổi hồi kèn báo thức. Và không gì hơn suốt ngày chủ nhật một mình một ngựa chạy như bay vào hướng đồn Daksard. Con đường đỏ còn ướt sương đêm, trời chưa tan hẳn mù, ngựa phi như gió cuốn, ngựa đi vào trong một vùng mù đặc, rừng thông chuyển động ào ào, cả trời cao nguyên tan biến chập chờn theo vó ngựa. Kết quả sau hai năm ăn nhờ chánh phủ tôi được trở thành ông quan một, ra trường đi binh chủng hung hãn nhất. Tôi biến thành một người lính thực thụ, trận lớn, trận nhỏ, chiến dịch hai tháng, ba tháng, dài ngắn, từ Sài Gòn ra Bến Hải, tôi đi đủ. Những địa danh xa xôi bất kỳ một xó xỉnh hẻm hóc nào của miền Nam này tôi cũng có thể biết rõ một cách tường tận. Từ những miền nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên đến những làng nhỏ từ cửa Việt đi ra - Diêm Hà Trung, Diêm Hà Nam - cái làng nhỏ cuối thung lũng sông Kim Sơn, làng Hà Tây, đèo ông Hổ đổ xuống Phù Củ ra Phù Ly, Phù Cát thẳng đến biển là núi Lồi, đầm Trà Ổ, xuống phía Nam, đầm Nước Ngọt. Lên đến Pleiku, trực thăng vận xuống phía Nam biên giới Lào-Việt, đầu ngọn sông Ia-Drang... Đâu đâu tôi cũng đến. Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba tôi sống thoải mái, vì đã đi đủ, nhìn đủ. Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ. Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến hôm nay, bước vào năm thứ mười hai đời lính tôi lại rơi vào sự khủng hoảng của những năm đầu tiên. Nỗi khủng hỏang tàn tệ tội nghiệp gấp vạn lần trước. Thời gian ở quân trường, tôi còn có thế giới kỳ ảo thiên nhiên, những ngày mới ra đơn vị, tôi tham dự để biện minh thái độ dấn thân, lao vào lửa đạn không thắc mắc, không ngần ngại — Tôi dấn thân để tìm kiếm niềm an ủi do tham dự hết lòng, đồng thời còn có điều khôn ngoan đã tìm ra những hạnh phúc tương đối — Loại thực phẩm trần gian hợp với khẩu vị. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay thì qủa thực tôi bất lực. Bất lực để giaœi thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này. Những chốn trú ẩn xưa bị phá vỡ tan hoang, nếu không nói đến những phản ứng trái ngược đã xảy ra. Trên đường đi đến Lái Thiêu, vườn dừa xanh ngắt, hoa huệ trắng tỏa hương thơm ngát không gợi nên một thiên nhiên an lành mơ mộng nhưng trái lại như một đối tượng đang phải chịu sự tàn phá sắp tới của chiến tranh; một đối tượng đau đớn của thiên nhiên không được thụ hửơng sắp sửa bị tiêu hủy. Những ngày dài hành quân không gây chịu thích thú, không tạo mới lạ, chỉ còn lại chịu đựng... Chịu đựng im lìm trong một niềm bất mãn đến ngộp thở. Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi cuả nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao. Tôi hai mươi sáu tuổi để thấy rõ cái mặc cảm phạm tội trước kia chỉ là một ảo tưởng xa xỉ của tuổi mới lớn, ảo tưởng về trách nhiệm con người đối với nhau. Tôi hai mươi sáu tuổi đủ để nhận rõ rằng: Hạnh phúc quả là một vật ít ỏi tương đối, nhưng nếu mua bằng giá của đời sống mình thì thật vô lý. Đành rằng sống chẳng là một cái gì rực rỡ nhưng nếu đánh giá đời sống bằng khổ cực và cái chết thì thật là một việc rồ dại và ngu xuẩn. Như vậy tôi hai mươi sáu tuổi có được gì? Tôi có được một cái nhìn thông suốt hết cả. Nói như thế có vẻ tự kiêu và lố bịch. Nhưng nếu trung thực hơn: Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người. Gần đây báo Sống tục bản dưới hình thức báo Công Chúng có đặt câu hỏi: Người thời đại nghĩ gì? Trong đó có nêu lên chi tiết ai là thần tượng cho tuổi trẻ hôm nay? Tôi hai mươi sáu không trẻ lắm nhưng chưa già, cố tìm cho mình một thần tượng? Không có, làm gì có thần tượng cho tuổi trẻ khốn khổ của tôi. Làm sao tôi có được một thần tượng sau tám năm đằng đẵng đầy thù nghịch và ngặt nghèo. Người ta chỉ tìm được thần tượng khi lòng còn rung động. Bây giờ tôi có rung động nào trong tâm hồn? Năm vừa rồi đi đưa đám tang những thằng bạn thân, chỉ thấy trong lòng một thoáng bâng khuâng, chả bù trước đây tôi ôm xác của Phương, của Dũng chạy như điên trên sườn đồi nước mắt chảy dài trên má. Chiều trở về chỗ đóng quân nhìn chiếc võng của người chết tưởng chừng như thân thể sụp xuống tan đi trong vũng phiền buồn. Bây giờ tôi làm sao khóc được, làm sao để phẫn nộ, để nhớ thương, để mong ước. Thần tượng bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào? Nhìn ảnh phó Tổng Thống Humphrey trong báo US News & Report cùng những câu trả lời của ông ta trong thời kỳ tranh cử Tổng Thống. Cái mồm nhỏ, trán hói, vẻ trai trẻ gỉa vờ khi xắn quần chạy trên bãi biển thấy ngượng ngùng đến khó chịu. Hay loại chính khách local?! Ô thần tượng cái khổ nào ở thứ lãnh tụ và chính khách hạng nhì này... Hay là Mao Trạch Đông? Không được nốt, cái mặt ị, đôi mắt ti hí, cuốn sách nhỏ chỉ hú hồn được thanh niên ở các nước Tây phương. Tôi cố tìm suốt một dãy các danh nhân còn sống hay đã chết để tìm cho được một người để ngưỡng mộ. Churchill? Cũng không được, đọc Mémoire của ông ta, cuốn L’Étau se referme không chịu được thái độ bất nhân đối với Nam Tư. Đến Exodux thì người Anh, ôi cũng là lũ thực dân. Nhớ đến lần hành quân ở Long Khánh thì Úc hay Anh cũng vậy, cũng là God save our King. Chả ra cái thống thế gì. Thế thì hết. Hết tiệt cái thế kỷ thần tượng, vì nếu qủa thật còn một chút thần tượng nào vất tưởng ở trên hành tinh này thì Jackie đã không xóa tan hình ảnh ông chồng rực rỡ để đi theo ông thương gia có phòng tắm lót vàng. Sống bên cạnh một thần tượng còn cho thần tượng đó "de" thì huống gì tôi, một kẻ da vàng xa xứ của ông thì ngưỡng mộ gì ông được, hở ông Kennedy. Đó là chưa kể đến nỗi hằn học mà ông Bob Kennedy để lại trong lòng những người lính Việt Nam. Hay thần tượng ỏ một anh nhược tiểu? Ché Guévara cũng không được. Đây chỉ là một loại James Bond cộng với Trần Độ mà thôi. Tóm lại thần tượng tất cả đều bị chôn chặt, bị cuốn hút, bị xóa tên, chỉ còn lại một vài thần tượng què quặt trên óc não bệnh hoạn, yếu đuối của một số người chưa sống đủ, thần tượng của những kẻ nổi loạn thành phố, những kẻ mang tâm trạng "bão tố trong cốc nước" những gã Mỹ con tóc dài, hippy, biểu tình chống đối trước trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ. Sau tám năm ở lính, tôi mệt mỏi vô ngần. Mời các bạn đón đọc Dấu Binh Lửa của tác giả2 Phan Nhật Nam.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6