Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú

Đuổi theo tinh tú… Cũng không khác gì hái sao trên trời, ngụ ý những ước mơ không thể chạm tới. Biết không chạm tới mà vẫn mải miết theo đuổi, là hành động thường chỉ bắt gặp ở tâm hồn không chịu tuyệt vọng như trẻ thơ. Người ngoài nhìn vào thấy rất ngẩn ngơ, nhưng ấm lạnh ra sao chỉ người trong cuộc biết. Giống như người đàn ông vợ chết, cả quãng đời còn lại chỉ ráo riết tìm đường xuống địa ngục phục sinh nàng… Giống như cô bé vì chút tình mới chớm với một anh chàng, mà nồng nhiệt băng mình vào hành trình không thấy ngày mai dưới lòng đất… Bởi nếu không buông bỏ nhịp sống an toàn dù chỉ chốc lát, để đuổi theo những ước mơ dù vô vọng nhất và đối mặt với cảm xúc của mình ở chặng cuối hành trình, thì cuộc đời họ cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Tiếp tục đề tài chia ly, nhưng không đẩy nhân vật lên trời cao như Tiếng gọi từ vì sao xa hay trải ra trên trần như 5 centimet trên giây, lần này câu chuyện của Shinkai Makoto lại dắt tất cả xuống lòng đất, sang thế giới đang mai một bên kia… *** Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú hay câu chuyện về những con người tìm về một giấc mơ Trong quá khứ, đã từng có một Shinkai Makoto dịu dàng, dung dị và tối giản vô cùng vô tận ở những bộ phim, câu chuyện ngắn như Kanojo to kanojo no neko – Nàng và con mèo của nàng. Nhưng hiện tại, lại có một Shinkai Makoto khiến người ta đắm say với các thước phim tráng lệ như một bữa tiệc của tình tiết hòa quyện với đồ họa, âm thanh. Tuy nhiên, dù giản dị hay tráng lệ, dù hiện thực hay hư ảo, điều cuối cùng điều Shinkai Makoto hướng đến vẫn là tái hiện những cảm thức rất riêng của con người, xã hội Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, bộ phim được công chiếu vào năm 2011, một trong các tác phẩm có thời lượng dài nhất của Shinkai cho tới hiện tại, cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy. Để từ đó, tiểu thuyết cùng tên được Akisaka Asahi chắp bút chuyển thể từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương đã phần nào lưu giữ, tái hiện được trọn vẹn “chất Shinkai Makoto”. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review sách Một áng văn đẹp tựa cổ tích Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, cuốn sách nhỏ chưa đầy 200 trang có một tựa đề đầy thơ mộng, rất gợi, rất thơ, đủ mang tới cho độc giả nhiều suy tư cùng liên tưởng. Tại sao lại là “những đứa trẻ”? “Những đứa trẻ” ở đây là chỉ những đối tượng nào? “Tinh tú” là gì? Là một ngôi sao cụ thể hay là hình ảnh mang ý nghĩa biể tượng nào đó. Và những đứa trẻ kia, vì lý do gì lại phải đuổi theo tinh tú, hành trình ấy sẽ diễn ra như thế nào, có thật thuận lợi, kết quả chúng có thể hoàn thành được tâm nguyện của mình? Quả thực, từ một tiêu đề đầy tính gợi hình, gợi tả, Shinkai Makoto đã mở ra cả một không gian truyện tựa như cổ tích. Ngay chính trong lòng đất nước Nhật Bản thời hiện đại, có một mảnh đất tựa rêu phong phủ kín: Mizonofuchi. Mảnh đất ấy, lại ở ngay phía trên một thế giới dưới lòng đất đang mỗi lúc một suy tàn: Agartha. Cho nên, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đấy cứ bảng lảng như thực như hư trong những lời kể, trong những dòng không gian xáo trộn, trong những dòng tâm trạng hay những kí ức, suy tưởng vụn vỡ của con người. Không gian sáng tác tựa như cổ tích, dòng thời gian chảy trôi của các tình tiết cũng như một câu chuyện huyền thoại được viết bằng bút pháp hiện đại. Bởi thời gian ở Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú là một dòng thời lưu có nhiều xáo trộn, đan xen giữa hiện thực – quá khứ; vừa là sự tỉnh lược trong những lời trần thuật, vừa là sự kéo dài mỗi khoảnh khắc, mỗi đêm khó khăn, vất vả của cuộc trình giữa hai thầy trò Asuna – Morisaki. Từ đó, mà cốt truyện dần thành hình và độc giả, không chỉ hiểu về nội dung mà còn hiểu sâu về tư tưởng, tình cảm người viết gửi gắm vào tác phẩm, ngay từ các con chữ đầu tiên, xuất hiện trên tựa đề. Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI, một thị trấn như bị lãng quên, dòng thời gian như ngưng đọng, nơi đấy, có một cô bé 11 tuổi tên Asuna, dịu dàng, tốt bụng nhưng luôn rụt rè, nhút nhát. Hàng ngày, sau khi tan học, Asuna đều đến mỏm đá cao nơi bìa rừng để bắt sóng cho chiếc radio tinh thể. Tại đây, ngày nọ, Asuna gặp gỡ một cậu bé tên Shun, cư dân của vùng đất dưới lòng đất Agartha. Tình bạn chớm nở giữa hai đứa trẻ và Shun đã cứu Asuna thoát khỏi nanh vuốt một con quái vật. Tuy nhiên, lần đầu gặp gỡ cũng là lần cuối chia tay, Shun chết ngay sau đêm ấy. Và trong buổi học sau đó, Asuna lại được nghe thầy giáo Morisaki nhắc tới mảnh đất Agartha, nơi có thể hồi sinh được người chết. Rồi như định mệnh, Asuna gặp gỡ em trai Shun – Shin, người đến mặt đất lấy lại viên tinh thể Shun để lại. Cô bé, vì quá đỗi kinh ngạc trước sự giống nhau giữa Shin – Shun và nhất là với khao khát cứu sống lại người bạn quá cố, đã cố gắng theo chân cậu bé tới mảnh đất xa lạ kia. Giữa đường, họ gặp cuộc tập kích của những kẻ cũng ôm ấp mưu đồ tới Agartha, trong đó có thầy Morisaki, người đang mang tâm nguyện hồi sinh vợ. Ba con người, mang ba nỗi niềm, tiến đến Agartha, miền đất trong truyền thuyết, nơi lưu dấu những tri thức cổ xưa, nơi cất giữ những bí ẩn cổ đại nhất của nhân loại, nơi ẩn chứa những sức mạnh nằm ngoài tầm với, sự hiểu biết của con người. Và cũng như rất nhiều câu chuyện cổ tích khác, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, từ mảnh đất của truyền thuyết, với những huyền thoại được thêu dệt, mà con người gửi gắm vào đấy ước mơ, hi vọng. Ước mơ hồi sinh người đã mất, ước mơ được gặp người quá cố, ước mơ tìm về một phần ký ức đã xa, ước mơ được sống những giây phút chẳng còn cô đơn, phiền muộn. “Tinh tú”, vì thế, đâu chỉ tượng trưng cho bầu trời đêm lấp lánh ánh sao trong lần đầu Asuna và Shun gặp gỡ. Đó còn là biểu tượng cho những giấc mơ đẹp, có phần xa xôi nhưng người ta vẫn mãi kiếm tìm, mãi đuổi theo, mãi vươn đến. Bởi, còn đuổi theo tinh tú, con người còn mục đích để tiếp tục sống, tiếp tục hướng đến ngày mai. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review Câu chuyện cổ tích, nhưng cũng là câu chuyện của thực tại Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đẹp tựa giấc mơ cổ tích ấy như gieo vào lòng người đọc những xúc cảm rất thơ, rất mộng của một thời thơ bé ta vẫn từng mơ: xứ sở dưới lòng đất, nơi biến khát vọng con người thành hiện thực, những loài sinh vật chỉ là tưởng tượng hay các cuộc phiêu lưu căng thẳng, kịch tính. Nhưng khi tỉnh dậy từ trong giấc mộng được Shinkai Makoto cùng Akisaka Asahi chắp cánh, hẳn mỗi độc giả, mỗi chúng ta, đều nhận ra rằng: Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, tưởng như cổ tích mà lại là câu chuyện hết sức đời thường, đời thường đến nỗi quá đỗi dung dị. Như đã nói, những tác phẩm của Shinkai Makoto, dù trước kia hay bây giờ, dù hiện thực hay hư ảo, đều chuyên chở ở đó những tầm sâu văn hóa và tâm thức rất riêng của con người Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy Shinkai. Dẫu rằng phần lớn dung lượng cuốn sách nhắc đến Agartha, một địa danh không có thực; nhưng không vì thế mà bóng hình Nhật Bản với vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong những dấu tích văn hóa, sinh hoạt đời thường của con người trở nên phai nhạt. Quê hương cô bé Asuna sinh sống, thị trấn Mizonofuchi, nơi có trường tiểu học Mizonofuchi như ngưng đọng lại những trầm tích thời gian, lịch sử của một nước Nhật giàu truyền thống. “Ngôi trường bằng gỗ được dựng từ đầu thời Chiêu Hòa, cổ kính, đượm màu thời gian”. Và chính cái tên Mizonofuchi – nghĩa đen tức đáy sâu cũng như gói ở đó bao lắng đọng của cả vật chất lẫn tinh thần của mỗi bước chuyển thời gian ở xứ sở này. Ngọn núi ở Obuchi, mũi đất cô bé Asuna vẫn thường đến để thu bắt tín hiệu cho chiếc radio tinh thể có ý nghĩa biểu tượng như chiếc cổng Tori trong văn hóa Nhật Bản: nối liền hai không gian, gắn kết những chiều thời gian để mở ra hai thế giới vẫn luôn song song tồn tại. Và ngay chính vùng đất truyền thuyết Agartha, cũng mang dáng dấp một Nhật Bản cổ xưa, với những nét đẹp truyền thống, những tri thức cổ đang dần đến bờ vực mai một, thất truyền giữa dòng xoáy của thời gian, của lòng người. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú Trong một câu chuyện gợi nhiều liên tưởng tới không gian văn hóa đặc trưng của xứ sở mặt trời mọc, thì nhân vật hiện lên, cũng mang nét riêng. Đó là những con người hiện đại đều cùng chung tâm thức giữa cuộc khủng hoảng căn cước: cô đơn vô định giữa cuộc đời, mãi kiếm tìm cái tôi bản ngã hay một lẽ sống, tồn tại trong cuộc sống hay mọi người xung quanh. Họ khao khát được khẳng định chính mình, khao khát được công nhận nhưng đồng thời, họ cũng e sợ, rụt rè trong những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm gay gắt giữa được và mất. Như cô bé Asuna đã cô đơn biết bao trong cuộc sống của hai mẹ con mà người mẹ luôn bận rộn công việc, không có thời gian dành cho cô bé. Asuna khát khao được kết bạn, được nói lên tiếng nói cá nhân từ thẳm sâu trái tim nhạy cảm. Nhưng mãi cô bé chẳng nói được, vì sợ hãi mà Asuna, cứ dần khép chặt lại cánh cửa con tim. Hay như cậu bé Shin, mãi đuổi theo bóng hình người anh trai thiên tài mà cậu bé như quên đi mất, bản thân cũng là một cá nhân độc lập, có suy nghĩ, có cuộc sống riêng. Và đấy còn là người thầy Morisaki, sẵn sàng đánh đổi tất cả, chỉ để hồi sinh người đã khuất; người thầy đó, như bao năm qua vẫn luôn ôm ấp một bóng ma để làm lẽ tồn tại cho cuộc đời nhiều thương đau. Mỗi con người, mỗi cảnh ngộ, dù già hay trẻ, dù trải đời hay chưa thì đó đều là một mảnh ghép để hoàn thiện bức tranh về Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú. Hay có thể nói chăng, chính là con người, nên dù mãi đuổi theo niềm mơ ước riêng của cá nhân, dẫu có xa xôi, dẫu có viển vông, thì đấy vẫn là ước mơ, đích đến cho con người ta sống, tồn tại, vươn lên dưới bầu trời. Shinkai Makoto – từ ngôn ngữ điện ảnh đến ngôn ngữ văn chương. Điểm mạnh dễ nhận thấy nhất trong phim của Shinkai Makoto sau hàng loạt tác phẩm như Tiếng gọi từ vì sao xa, 5cm/s, Khu vườn ngôn từ… là ở mảng đồ họa trong ngôn ngữ điện ảnh. Các thước phim của ông, đều là bữa tiệc thịnh soạn của hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, từ đó mà đầy cảm xúc của người xem đến cao trào. Đó là ưu điểm; song cũng là một sự thách thức cho các nhà văn, khi chuyển thể sáng tác của Shinkai Makoto từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương. Bởi văn chương, chỉ có thể dùng ngôn từ để tái hiện lên những gì vốn là hình ảnh, âm thanh mà thôi. Và với Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Akisaka Asahi đã phần nào đáp ứng được thử thách khó khăn đấy. Một cuốn sách dung lượng không quá dài nhưng lại để tái hiện một bộ phim có chiều dài gần hai tiếng. Ngôn từ cô đọng, kể, tả, tạo điểm nhấn vào những sự kiện khá đắt giá: lúc Asuna gặp Shun, Asuna và thầy Morisaki những ngày đầu ở Agartha, khoảnh khắc ba con người đem ba vọng ước trên mảnh đất huyền thoại đối mặt với điều ước cải tử hoàn sinh… Để rồi, dẫu không thể mang tới cho độc giả một bữa tiệc của hình ảnh, âm thanh như thế mạnh của điện ảnh; thì Akisaka Asahi, vẫn mang tới cho người đọc một tác phẩm, đủ gợi hình, gợi tả về những giấc mơ đã xa, và về cả những khát khao trong hiện tại lẫn tương lai. Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú của tác giả Asahi Akisaka & Makoto Shinkai & Lan Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Chim Én Liệng Trời Cao - Ma Văn Kháng
Trên văn đàn Việt Nam, có lẽ hiếm tác giả có sức viết dẻo dai, bền bỉ như nhà văn Ma Văn Kháng. Sau gần ba mươi tác phẩm ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn…; mới đây, ở tuổi ngoài 80, nhà văn Ma Văn Kháng cho ra mắt tiểu thuyết Chim én liệng trời cao - tác phẩm gần 400 trang sách phát triển từ truyện ngắn Chim én do ông khởi bút gần nửa thế kỷ trước. Bút danh Ma Văn Kháng khiến nhiều độc giả tưởng rằng đây là nhà văn miền núi, người dân tộc thiểu số, chứ ít ai nghĩ ông là nhà văn Hà Nội gốc, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ra tại làng Kim Liên, quận Đống Đa, một ngôi làng cổ của Hà Nội. Ông từng là giáo viên dạy văn và hiệu trưởng một trường cấp ba tại tỉnh Lào Cai. Hơn 20 năm tuổi trẻ gắn bó với vùng đất này, dường như cuộc sống, văn hóa của người dân vùng núi rừng Tây Bắc đã trở nên máu thịt trong ông. Ông từng chia sẻ: “Linh giác đây là vùng đất, vùng thẩm mỹ đầy bí ẩn đã mê hoặc tôi ngay từ khi tôi vừa đặt chân lên mảnh đất Lào Cai, vùng địa đầu của Tổ quốc. Gọi linh giác có lẽ là chính xác vì lúc đó tôi 18 tuổi, vậy mà lại đinh ninh rằng ở vùng đất này, mình sẽ làm được cái gì đó để lập thân, lập nghiệp và có ích cho đời, thế có lạ không?”. Chim én liệng trời cao là khúc ca đẹp, hùng tráng về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của người dân vùng núi rừng Tây Bắc khoảng thời gian cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại địa bàn Cam Đồng, một xã gồm bốn thôn người Tày và một thôn U Sung trên núi cao thuần người Dao. Cuộc chiến đấu đầy gian khổ, sự trưởng thành của người dân về tư tưởng và tinh thần đấu tranh cách mạng thể hiện xuyên suốt qua nhân vật Tiển. Từ một cậu bé ở bản quê Cam Đồng hằng ngày ngồi trên lưng trâu, ngắm “bầy chim én cất tiếng rộn vang trên bầu trời sớm mai”, thổi sáo trúc bài “Chim én liệng trời cao”, Tiển sớm gia nhập vào hàng ngũ những người làm cách mạng, trở thành chiến sĩ liên lạc và trưởng thành cùng sự phát triển của cách mạng trên mảnh đất quê hương. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Chim Én Liệng Trời Cao của tác giả Ma Văn Kháng.
Ván Bài An Ủi - Anna Gavalda
Cuộc sống ở tuổi 47 của Charles, một nghề kiến trúc sư, tưởng chừng sẽ bình lặng trôi đi. Nhưng một ngày kia, anh gần như suy sụp và bơ vơ khi được tin mẹ một người bạn thời ấu thơ qua đời. Suốt một năm sống trong đau buồn, lên đường tìm kiếm, day dứt giữa quá khứ và hiện tại, anh đã mang lại cho chính mình đầy ắp những bất ngờ. Một tình bạn ngỡ như tan vỡ được hàn gắn, những đứa trẻ mồ côi được đoàn tụ, những người chết được trở về và một tình yêu lớn nảy nở. Tất cả thấm đẫm cảm xúc và mỗi câu chuyện, mỗi sự việc đều toát lên hơi ấm của tình yêu, bởi “chúng ta còn lại gì nếu chúng ta không nói với nhau về tình yêu hay về điều mà mình thích”? *** Lời khen tặng dành cho Ván bài an ủi “Một cuốn tiểu thuyết thật lạ, thật buồn.” - Le Figaro “Bạn mong văn chương mang đến cho bạn những cơn thác cảm xúc? Xóa nhòa đời sống thường nhật của bạn? Khiến bạn bất ngờ khóc òa? Bạn sẽ có tất cả trong Ván an ủi của Anna Gavalda.” - Tạp chí Psychologies “Một câu chuyện đẹp và cảm động về những con người luôn gắn bó với nhau bất chấp mọi thương tổn và phức tạp.” - critiqueslibres.com "Cuốn tiểu thuyết rườm rà, điên rồ và đầy ắp những khám phá.” - Le Monde “Anna Gavalda lại một lần nữa tạo ra những điều kỳ diệu.” - Tạp chí Lire *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc Ván Bài An Ủi của tác giả Anna Gavalda.
Những Người Ở Khác Cung Đường - Hoàng Minh Tường
Cuốn truyện này, chính là tác phẩm của nhà văn Lữ Hành, người bạn vong niên của tôi, mà tôi chỉ là người sao chép lại. Cái ý định xây dựng một bộ tiểu thuyết về những con người làng Hạ quê anh, đã được anh ấp ủ từ lâu, mà cuốn truyện này mới là một phần trong bộ tiểu thuyết ấy. Nhưng buồn thay, vào đúng cái buổi chiều, sau khi đưa Tựu đến thăm Phát trở về, một tai nạn bất ngờ đã làm nhà văn làng Hạ suýt từ giã chúng ta. Lúc ấy mới vào quãng chập tối. Đưa Tựu trở lại xí nghiệp sản xuất thương binh rồi, Lữ Hành rong ruổi trên chiếc xe đạp tàng trở về nhà. Nhưng vừa kịp đến đầu dốc từ con đê quai Hồ Tây rẽ về làng Hạ, thì một chiếc xe máy từ phía sau lao thẳng vào người anh. Ba ngày sau hôm nhà văn Lữ Hành bị tai nạn, tôi mới biết tin, vào viện thăm anh. Rất may là người không bị sây sát gì lớn. Nhưng nghe bác sĩ nói, anh bị trấn thương sọ não nặng, một thương tật trùng lặp đến trớ trêu với trường hợp của Phú mà chúng ta đã biết! Trong thời gian thường xuyên lui tới thăm nhà văn Lữ Hành ở bệnh viện, tôi được biết công an đang điều tra vụ tai nạn này. Chủ nhân của chiếc xe máy gây ra tai nạn chưa biết là ai, vì ngay sau phút Lữ Hành bị ngã xe, thủ phạm đã nhanh chóng chạy trốn. Có tin nói rằng, vụ Lữ Hành bị tai nạn có liên quan đến bài báo của anh viết về những bê bối ở xí nghiệp sản xuất thương binh 27 tháng bảy. Sự thể thế nào, chắc chỉ một thời gian nữa, công luận sẽ làm sáng tỏ. Mặc dù sức khoẻ rất yếu, lại thường xuyên bị hôn mê, nhưng đôi khi nhà văn Lữ Hành vẫn có chút ít tỉnh táo. Vào một lúc tỉnh táo nhất khi tôi đến thăm, anh ra hiệu cho tôi lại gần và đưa cho tôi cuốn sổ tay mà lúc nào anh cũng giữ bên mình. Với tôi cuốn sổ tay ấy là một tài sản vô giá. Hiểu rõ ý định của anh, tôi vội vàng tập hợp lại các tư liệu, có thêm bớt chút ít để thành cuốn tiểu thuyết NHỮNG NGƯỜI Ở KHÁC CUNG ĐƯỜNG.​ *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Mời các bạn đón đọc Những Người Ở Khác Cung Đường của tác giả Hoàng Minh Tường.
Người Tình
Bản dịch của Dịch giả Trịnh Xuân Hoành. Sáu mươi năm trước Marguerite Duras đã sống những năm thơ ấu của mình ở Sa Đéc (Một thị xã ở đồng bằng sông Cửu Long). Những năm thơ ấu đó cũng là những năm xuân tình nữa. Một ký giả của tờ Le Point bên Pháp đã gọi đùa đó là “những năm dan díu lăng nhăng ở Đông Dương của Marguerite Duras”. Nhưng trái lại Marguerite tiết lộ, đó là những năm để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong ký ức của bà (Theo nhà văn Sơn Nam - Trong Bách Khoa văn học). Và với bút pháp lãng mạn, Marguerite đã đem đến cho độc giả thế giới và Việt Nam tác phẩm “Người tình” (L'amant) đầy sức hấp dẫn (được giải Công Cua 1984) mà bối cảnh là đồng bằng sông Cửu Long - nơi mà ở đấy các nhân vật bắt đầu khám phá ra tình yêu. Dựa vào cuốn tiểu thuyết này, nhà đạo diễn phim nổi tiếng của Pháp: J.J Annand, đã xây dựng bộ phim “Người tình” (L'amant). Bộ phim sắp được hoàn thành. Trước khi xem “Người tình” trên màn ảnh, xin mời bạn đọc. Tiểu thuyết “Người tình” của Marguerite lần đầu được dịch ra tiếng Việt. NXB HỘI NHÀ VĂN - 1991 ***       Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già.   Mời các bạn đón đọc Người Tình của tác giả Marguerite Duras.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6