Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Màu Của Nước

Màu Của Nước là cuốn tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride viết để tưởng nhớ người mẹ của mình, một phụ nữ gốc Do Thái da trắng kết hôn với những người đàn ông da đen. Vượt lên bi kịch cá nhân, sự thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi sự phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy mười hai đứa con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Đó cũng là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, cái tôi, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai da đen, đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ. Màu Của Nước ra mắt bạn đọc lần đầu vào năm 1995, trở thành một hiện tượng xuất bản với kỷ lục nằm trong danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times trong 100 tuần (hơn 2 năm) , được coi là tác phẩm văn học kinh điển của Mỹ, từng được trao các giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc, và là cuốn sách về người mẹ mà Amazon khuyên mọi độc giả nên đọc. - Trích từ bài giới thiệu của dịch giả Nguyễn Bích Lan. *** 'Màu của nước' - sách về nạn phân biệt chủng tộc Tự truyện của nhà văn Mỹ James McBride do dịch giả Bích Lan chuyển ngữ vừa ra mắt bạn đọc trong nước.  Nhà văn Mỹ James McBride mất 14 năm để "khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ" - con gái một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1942 ở Mỹ. Vượt lên thiếu thốn về vật chất, sự ngược đãi về tinh thần và mọi phân biệt đối xử, bà đã nuôi dạy 12 người con trở thành các bác sĩ, giáo sư, giáo viên, nhà khoa học. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm cội nguồn, sự tự tin và ý nghĩa cuộc sống của một đứa con lai - đại diện cho hàng triệu người da đen ở Mỹ.  Màu của nước được kể với giọng tự sự chân thực, hóm hỉnh, giản dị và không kém phần sâu sắc. Qua đó, tác giả gửi gắm ước mơ xóa nhòa ranh giới phân biệt chủng tộc. Theo James McBride, mỗi con người dù có màu da và xuất thân khác nhau đều cần được đối xử công bằng. Mọi phân biệt, kỳ thị không thể ngăn cản nhân loại chia sẻ tình yêu thương, lòng trắc ẩn. Theo tờ Wall Street Journal, "cuốn sách nói cho chúng ta về sự yếu kém liên quan đến vấn đề chủng tộc của quốc gia và về những khả năng vượt lên sự yếu kém đó". Trang Publisher Weekly đánh giá tác phẩm là tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, "bất cứ ai mang màu da nào, theo tôn giáo nào cũng nên đọc cuốn tự truyện cảm động và khó quên này".                          Màu của nước ra mắt bạn đọc năm 1995. Tác phẩm nằm trong danh sách "Sách bán chạy nhất" của tờ New York Times suốt 100 tuần, từng được trao giải thưởng Anisfield-Wolf Book Award năm 1997 cho tác phẩm văn học xuất sắc. Đến nay, tác phẩm bán được 2,5 triệu bản trên toàn thế giới, cuốn sách được dịch ra 16 thứ tiếng và xuất bản ở 20 nước. James McBride sinh năm 1957 tại New York, Mỹ. Ông là nhà báo, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng. James từng đoạt giải National Book Award (Giải thưởng sách Quốc gia Mỹ năm 2013 với tác phẩm The Good Lord Bird (Con chim đầu đàn).  Vĩ Thanh *** Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. *** Chết Con muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… Mời các bạn mượn đọc sách Màu Của Nước của tác giả James McBride & Nguyễn Bích Lan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Khách Sạn
Khách Sạn (Hotel) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Arthur Hailey bên cạnh nhiều vở kịch nổi tiếng được trình diễn khắp nơi trên thế giới và nhiều kịch bản phim rất thành công. *** Peter McDermott nghĩ: nếu anh có quyền thì anh đã tống cổ gã nhân viên an ninh khách sạn đi từ lâu rồi. Nhưng anh không có quyền, cho nên bây giờ, một lần nữa, gã cựu cảnh sát viên phục phịch đó lại mất tích đúng vào lúc người ta rất cần đến hắn. McDermott nghiêng người, tấm thân đồ sộ của anh cao đến sáu bộ rưỡi ( [1] ). Anh lắc lắc nhẹ chiếc điện thoại trên bàn, vẻ bồn chồn. - Mười lăm việc xẩy ra cùng một lúc. - Anh nói với cô gái đứng bên cửa sổ văn phòng rộng. - Thế mà chẳng ai tìm ra được hắn ở đâu. Christine Francis liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vài phút nữa là đúng mười một giờ khuya: - Anh thử tìm ở quán rượu đường Baron xem sao. Peter McDermott gật đầu: - Nhân viên điện thoại đang kiểm tra những nơi Ogylvie thường lui tới. - Anh mở ngăn kéo bàn, lấy bao thuốc lá ra mời Christine. Cô tiến lên phía trước nhận một điếu thuốc. McDermott châm thuốc cho cô rồi châm cho mình. Anh nhìn cô rít thuốc. Christine Francis đã rời căn phòng làm việc nhỏ của mình trong cụm phòng hành chính của khách sạn St Gregory trước đây vài phút. Cô đã làm việc khuya và sắp trở về nhà thì ánh đèn dưới cánh cửa của trợ lý tổng giám đốc khách sạn đã khiến cô phải bước vào. - Anh chàng Ogylvie của chúng ta có luật lệ riêng đấy - Christine nói - Tình hình này thường hay xẩy ra theo lệnh của ông chủ mà. McDermott nói rất ngắn vào điện thoại, rồi lại chờ đợi. - Cô nói đúng. - Anh thừa nhận - Đã có lần tôi tìm cách tổ chức lại đội thám tử của khách sạn ta, và tôi đã thất bại. Cô gái đáp nhỏ nhẹ: - Tôi không được biết việc đó. Anh nhìn cô vẻ chế nhạo: - Thế mà tôi cứ tưởng việc gì cô cũng biết. Thực ra, thường thì cô biết hết mọi chuyện. Là một trợ lý riêng của ông Warren Trent, chủ một khách sạn lớn nhất ở New Orleans có tính tình hay cáu bẳn, khó đoán trước, Christine thông tỏ những bí mật bên trong của khách sạn cũng như những hoạt động hàng ngày của nó. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Khách Sạn của tác giả Arthur Hailey.
Đi Ra Từ Bóng Tối
Bộ ba tự truyện nổi tiếng của Dave Pelzer – câu chuyện khó tin và có giá trị truyền cảm hứng về cuộc đời của chính tác giả – đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Đi Ra Từ Bóng Tối là phần kết thúc được chờ đợi từ rất lâu trong bộ ba tác phẩm: Không Nơi Nương Tựa (A Child Called “It”), Đứa Trẻ Lạc Loài (The Lost Boy) và Đi Ra Từ Bóng Tối (A Man Named Dave). Câu chuyện là hồi kết cho cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng của cậu bé David đáng thương qua bao năm tháng sống trong sự bạo hành về thể xác lẫn tinh thần do chính người mẹ ruột gây ra. Câu chuyện đưa người đọc đi cùng chàng trai tên Dave qua những khúc quanh cuộc đời để trở thành một người đàn ông trưởng thành, đầy khát vọng sống. Giấc mơ cuộc đời, thất bại đắng cay, vinh quang ngọt ngào và hạnh phúc vẹn tròn là những gì người đọc sẽ cảm nhận được bằng những rung cảm chân thật nhất, sâu sắc nhất đằng sau những trang sách sống động của Đi Ra Từ Bóng Tối. Chàng thanh niên tên Dave sẽ phải đối diện như thế nào trước sự thật rằng cha mình - vị anh hùng trong những giấc mơ thuở bé của cậu - sẽ không còn sống được bao lâu nữa? Cậu sẽ làm gì với tâm nguyện một lần được trò chuyện với cha như bao đứa con trai bình thường khác khi ông thậm chí còn không đủ sức để siết nhẹ bàn tay cậu? Cậu sẽ đối xử như thế nào với người mẹ nghiện ngập, tàn bạo người đã chối bỏ sự tồn tại của con trai mình và đem đến bao nỗi kinh hoàng cho tuổi thơ của nó? Và cuối cùng, liệu có ai đó để cậu yêu thương, tin tưởng và giúp cậu lấy lại niềm tin vào tình cảm thiêng liêng của gia đình hay không? Đi Ra Từ Bóng Tối sẽ lần lượt giúp người đọc tháo gỡ tất cả những nút thắt ấy, dẫn dắt chúng ta tìm ra câu trả lời cho số phận của Dave, của từng nhân vật trong tác phẩm tự truyện. Và, có thể ở đâu đó trong tác phẩm, người đọc cũng sẽ tìm thấy câu trả lời cho cuộc đời của chính mình như những ai đã có may mắn được là người đầu tiên đọc và làm công việc chuyển ngữ cho bộ ba tác phẩm này vậy. Với sự bao dung vô biên và lòng can đảm tuyệt vời, Dave Pelzer đã làm nên một kết thúc hoàn hảo cho bộ ba tự truyện của mình cũng như cho chính cuộc đời của ông. Bằng kết thúc ấy, Dave Pelzer đã minh chứng một cách hùng hồn rằng: Không một thế lực, một xiềng xích nào có thể trói buộc được ý chí của con người. Ý nghĩa lớn lao này thật quý giá biết bao đối với những ai đang trên con đường đi tìm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. *** David James Pelzer sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa(1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của ông. Dave Pelzer được xem là một trong những phát ngôn viên quốc gia làm việc hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất, chuyên hoạt động trong các nhóm hội, tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ nhân quyền. Dave đã nhận được những lời khen tặng từ đích thân cựu Tổng thống Ronald Reagan và George Bussh. Năm 1993, Dave được vinh danh là một trong mười Đại diện tiêu biểu nhất của Thanh niên Hoa Kỳ và năm 1994, Dave là công dân duy nhất của nước Mỹ vinh dự được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới. Dave còn được chọn làm người rước đuốc trong Thế Vận hội năm 1996. Dave đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp nhiều người khác thoát khỏi nghịch cảnh. Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.C. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của Thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzer.com *** Ngày 4 tháng 3 năm 1973 Thành phố Daly, California Tôi sợ hãi. Chân tôi lạnh buốt và bụng kêu gào vì đói. Trong bóng tối của cái ga-ra, tôi chăm chú căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất từ phía phòng của mẹ ở trên lầu, từng tiếng cót két mỗi khi bà trở mình. Tôi thậm chí còn có thể biết được bà đang ngủ hay chuẩn bị tỉnh giấc qua những tiếng ho khan của bà. Tôi mong bà không bị tỉnh giấc bởi chính những tiếng ho của mình. Tôi ước mình có thêm một chút thời gian. Chỉ còn vài phút là một ngày tồi tệ nữa lại bắt đầu. Tôi nhắm mắt lại và lẩm bẩm nhanh một lời cầu nguyện, mặc dù tôi biết rõ Chúa chẳng mấy yêu quý mình. Bởi tôi chẳng xứng đáng làm một thành viên của “Gia đình”, nên tôi phải ngủ trên một cái cũi cũ kỹ, xấu xí và thậm chí chẳng có lấy một cái chăn. Tôi cuộn tròn như một quả bóng để cố giữ cho cơ thể càng ấm càng tốt. Tôi lấy áo sơ mi trùm kín đầu, hy vọng hơi thở của mình sẽ giúp mặt và tai ấm hơn một chút. Tôi kẹp hai tay vào giữa hai chân, có khi kẹp vào nách để bớt lạnh. Bất kỳ lúc nào đủ dũng khí và biết chắc rằng mẹ đã ngủ rất say, tôi mới dám trộm một cái giẻ rách từ đống đồ dơ quấn chặt quanh chân để giữ ấm. Tôi làm mọi thứ để có thể ấm hơn một chút. Giữ ấm được nghĩa là sống sót. Cả tinh thần lẫn thể chất của tôi đều rã rời. Phải mất hàng mấy tháng trời tôi mới có thể thoát khỏi những cơn ác mộng. Dù có cố thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn không tài nào ngủ lại được. Toàn thân tôi tê cóng. Đầu gối tôi rung lên bần bật. Tôi khẽ cọ hai bàn chân vào nhau, lòng vẫn nơm nớp lo sợ nếu gây ra bất cứ tiếng động nào thì mẹ cũng sẽ nghe thấy. Tôi không được phép làm bất kỳ điều gì nếu không có lệnh trực tiếp của bà. Thậm chí ngay cả khi tôi biết bà đã chìm lại vào giấc ngủ, tôi vẫn có cảm giác bà đang kiểm soát tôi. Mẹ vẫn luôn như vậy. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng khi cố nhớ lại quá khứ. Tôi biết rằng để sống sót, tôi phải tìm những lời giải đáp ngay trong quá khứ của mình. Ngoài giải pháp để có cái ăn, để được sưởi ấm, để được sống sót, việc tìm hiểu lý do vì sao mẹ lại đối xử với tôi như vậy cũng sẽ chi phối rất nhiều đến cuộc sống của tôi. Những ký ức đầu tiên của tôi về mẹ chỉ là những lời chửi mắng và nỗi khiếp đảm. Năm tôi lên bốn, chỉ cần nghe giọng nói của bà thế nào là tôi có thể biết ngày hôm ấy của tôi sẽ ra sao. Bất cứ khi nào bà tỏ ra kiên nhẫn và độ lượng, bà chính là “Người mẹ hiền”; nhưng mỗi khi bà nổi giận và điên tiết với mọi thứ, thì bà chính là “Mẹ” - một người mẹ lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng hành hạ tôi bằng những cách không ai có thể ngờ được. Tôi lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ làm bà phật lòng, thậm chí tôi còn chẳng dám vào nhà vệ sinh nếu không xin phép bà trước. Dù còn rất bé, nhưng tôi cũng nhận ra rằng càng uống rượu nhiều, mẹ càng thay đổi nhanh và để con người thứ hai kiểm soát mình hoàn toàn. Một buổi chiều Chủ nhật nọ, lúc đó tôi mới năm tuổi, trong lúc say khướt, bà đã tấn công và vô tình làm gãy tay tôi. Ngay khi nhận ra mọi chuyện, mắt bà mở thao láo như hai đồng đô-la bạc. Mẹ biết bà đã đi quá đà. Bà biết bản thân mình đã mất kiểm soát. Sự việc đó không còn đơn giản như những cái tát, những cú đấm hay những lần tôi bị ném xuống cầu thang trước đây. Mời các bạn đón đọc Đi Ra Từ Bóng Tối của tác giả Dave Pelzer....
Mộng Phù Du
Tác giả 'Rừng son' Candace Bushnell tái ngộ độc giả VN với 'Mộng phù du', câu chuyện về sức mạnh của nhan sắc và ý chí của người phụ nữ hiện đại. Tác phẩm nằm trong loạt sách của Chibooks ra mắt nhân Lễ tình yêu. Với “Mộng phù du”, Bushnell nêu cao tuyên ngôn: Chiến thắng dành cho những phụ nữ làm chủ đời mình; mặc dù vậy, mọi nấc thang danh vọng đều có giá của nó.Janey Wilcox - cô người mẫu đồ lót nổi tiếng của Victoria’s Secret, nỗ lực leo lên những nấc thang danh vọng trong xã hội New York bằng mọi giá. Quá trình đi tới đỉnh vinh quang đầy thử thách và đau đớn khi Janey bị lộ tẩy quá khứ rắc rối cùng vô số quan hệ tình ái không minh bạch. Mối quan hệ bạn bè với Mimi Kilroy - một nhân vật có vị trí hàng đầu trong xã hội New York, ông chồng tốt Selden Rose - người đứng đầu kênh truyền hình cáp Movie Time, người tình Comstock Dibble - giám đốc hãng Parador Pictures… đều chỉ là những bước đệm tạm thời cho Janey tiến lên phía trước. Thế nhưng, thành công của bất cứ ai sống trong thế giới hào nhoàng của Janey cũng đều là “một thành công kiểu Hollywood - bất ngờ, kỳ diệu, và choáng ngợp - được tạo ra để cuối cùng hủy hoại linh hồn của người nhận nó”. Qua cuốn sách, tác giả gửi thông điệp đến những con người đang sống trong “giấc mộng phù du”: “Trong tương lai, sẽ còn rất nhiều những giây phút thất vọng, khi khám phá ra mình bị bội phản, khi nhận ra rằng mới hôm nay mình thật “hot”, hôm sau mình đã đóng băng, và không ai nhận điện thoại của mình nữa…”. *** Review Mê Đọc Truyện Tình: Lâu rồi tớ mới đọc được một cuốn sách hay như này. Hành văn và cốt truyện đều hay song dịch thuật hơi kém một chút. Có thể do bản này người dịch còn chưa chuyên. Chắc chắn tớ sẽ mua bản gốc đọc Sách viết về một cô người mẫu .Cô tên Janey Wilcox. Phải bò từng bước trên nấc thang danh vọng . Thuở đầu, cô phải làm gái cho một ông trùm buôn vũ khí giàu nứt đố đổ vách. Mối tình với anh lái tàu đã kết thúc cuộc sống nhung lụa ấy. Cô trở về, bắt đầu làm người mẫu. Thời gian đầu rất khó khăn, đôi khi phải vay tiền các tình nhân. Trong lúc ấy, cô nhận được thư mời làm việc của Victoria’s Secret. Cuộc đời sang trang mới. Nổi tiếng, giàu có,... như cô hằng mong. Cô lấy chồng, ly dị và bắt đầu làm phim. Bản thân tớ thấy rất thích cô Janey Wilcox này. Một cô gái mạnh mẽ, khôn ngoan. Vẫn rất tình cảm và yêu cái đẹp. Thực ra con người cô không xấu, cô xấu là do cô buộc phải thế. để sống sót, để cho những người kia thấy cô không dễ dàng bị quật ngã, Phụ nữ thời nay nên như vậy. Không quá ủy mị, không quá khôn ngoan.  Sách lột tả bộ mặt thật sự của Hollywood Hoa Lệ. Đừng tưởng làm minh tinh là sướng, là giàu. Để có được điều đó, người ta phải đánh đổi quá nhiều thứ, đôi khi là chính bản thân mình.  Hành văn khá ổn, cốt truyện hấp dẫn, thực tế và lời văn giản dị khiến nó trở thành cuốn sách viết cho tuổi mới lớn rất hay.   *** Đó là đầu hè năm 2000, và ở thành phố New York, nơi những con phố lấp lánh bụi vàng lọt xuống từ những vụ mua bán hàng tỉ đô trong nền kinh tế đang hưng thịnh, vẫn là chuyện làm ăn kinh doanh như mọi khi. Thế giới yên bình bước sang một kỷ nguyên mới, tổng thống một lần nữa tránh được việc bị buộc tội, và hiện tượng Y2K đã xì đi như một chai champagne Pháp cổ. Thành phố ngời lên với tất cả vẻ huy hoàng vừa rực rỡ, vừa thông tục, vừa nhẫn tâm của nó. Và vào đúng thời điểm đó, cả thành phố đang xôn xao về Peter Cannon, một luật sư trong ngành giải trí đã quịt tới ba mươi lăm triệu đô la của vài khách hàng ngôi sao. Những tháng năm kế sau đó, sẽ còn có nhiều vụ scandal hơn, hàng tỉ đôla bị mất, và những vụ lừa đảo dân chúng Mỹ. Nhưng vào lúc này, “vụ Peter Cannon” đã liên đới tới đủ những cái tên mặt dạn mày dày mà ít nhất tạm thời làm thỏa mãn đám dân New York đói khát chuyên ngồi lê đôi mách. Một trong những nạn nhân là nhạc sĩ rock ba mươi mốt tuổi tên là Digger. Digger là một trong những người thành công với cái tên chỉ có một từ, như rất nhiều nghệ sĩ vĩ đại, có khởi đầu khiêm tốn kết hợp với vẻ ngoài hơi quái đản. Anh là dân ở Des Moines, bang Iowa, có mái tóc vàng bẩn thỉu và làn da trắng nhờ đến đáng sợ mà ta có thể nhìn thấy cả mạch máu xanh bên dưới, và thường đội mũ phớt mềm, đặc trưng riêng của anh. Vào một chiều thứ Sáu kỳ nghỉ Ngày Liệt sĩ, anh ngồi lặng im bên bể bơi trong căn nhà thuê mùa hè với giá 100.000 đô tại Sagaponack ở Hamptons, hút thuốc không đầu lọc và nhìn vợ mình, Patty, đang giận dữ nói chuyện trên điện thoại. Digger dụi điếu thuốc vào chậu hoa cúc (trong chậu đã có một đống nhỏ đầu lọc thuốc mà người làm vườn sau đó sẽ dọn đi), và ngả người ra chiếc ghế dài bằng gỗ tếch. Hôm đó trời khá đẹp và anh thực sự không hiểu cái vụ lùm xùm về Peter Cannon này là sao. Là loại người coi mục đích đời mình đứng cao hơn công cuộc săn đuổi tiền bạc bẩn thỉu, Digger không thể hiểu nổi giá trị đồng tiền. Quản lý của anh ước tính anh mất phải đến một triệu đô. Nhưng với Digger, một triệu đô là khái niệm trừu tượng không rõ ràng chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ âm nhạc. Anh hiểu rằng mình có thể kiếm lại được một triệu đô đó bằng cách viết một bài hát hit, nhưng vào cái buổi chiều dễ chịu hôm đó, chìm trong sự xa hoa biếng nhác của một ngày ở Hamptons, dường như chỉ mỗi mình anh là có thái độ thờ ơ lãnh đạm như thế. Patty, cô vợ yêu quý của anh, đang hoang mang lo lắng, và nửa tiếng vừa qua đã nói toàn chuyện ngớ ngẩn trên điện thoại với chị gái cô, Janey Wilcox, một người mẫu nổi tiếng của Victoria’s Secret. Khi anh nhìn qua bể bơi tới nhà chòi nơi Patty ngồi cúi xuống cái điện thoại, ngắm nhìn thân hình hơi đẫy đà của vợ trong bộ áo tắm một mảnh màu trắng, thì cô ngước lên. Hai mắt họ gặp nhau và cùng hiểu một điều. Patty đứng dậy và bắt đầu bước về phía anh, và như mọi khi, anh ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần Mỹ giản dị của vợ mình: tóc vàng ánh đỏ dài đến ngang lưng, cái mũi hếch xinh xinh với những nốt tàn nhang, và đôi mắt xanh tròn. Janey, chị gái cô, được mọi người coi là “người đẹp hoàn hảo”, nhưng Digger chưa bao giờ thấy như vậy. Mặc dù Janey và Patty đều có cái mũi hếch giống nhau, mặt Janey có gì đó vừa xảo quyệt vừa hoang dại không làm anh thấy cuốn hút. Và hơn nữa, anh coi Janey, với những giá trị khỉ gió về địa vị và tiền bạc, thái độ kiêu căng và xấc xược, và ám ảnh về chính bản thân, đơn giản chỉ là một ả khốn mắc bệnh ái kỷ. Mời các bạn đón đọc Mộng Phù Du của tác giả Candace Bushnell.
Phi Vụ Bất Khả
Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình… "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột *** Bộ sách gồm có Móng Vuốt Quạ Đen:  Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 *** INEJ Inej cảm thấy như cô và Kaz đã trở thành hai đồng đội chí cốt, cùng nhau tiến lên, vờ như mình vẫn ổn trong khi che giấu các thương tích và vết bầm tím trước những người còn lại. Phải mất thêm hai ngày đường nữa để họ tới được vách đá trông xuống Djerholm, nhưng việc di chuyển trở nên dễ dàng hơn khi họ đi xuống phía nam và gần ra bờ biển. Thời tiết ấm áp lên, mặt đất tan giá bớt, và cô bắt đầu thấy những dấu hiệu của mùa xuân. Inej cứ ngỡ Djerholm cũng giống như Ketterdam - một tấm vải toan đầy sắc thái xám xịt, đường phố quanh co với sương khói quyện chặt và những con tàu đủ mọi chủng loại ra vào hải cảng, tấp nập theo nhịp độ giao thương sôi động. Cảng Djerholm đông đúc tàu thuyền, nhưng những con phố nhỏ hẹp đổ ra biển của nó được thiết kế quy củ, và các ngôi nhà được sơn đủ mầu - từ đỏ, xanh dương, tới vàng và hồng - như thể thách thức miền đất hoang dã trắng xoá và mùa đông phương bắc dài đằng đẵng. Ngay cả những dãy nhà kho trên bến cảng cũng mang nhiều màu sắc tươi vui. Nơi đây giống như hình ảnh cô mường tượng về các đô thị khi còn bé, mọi thứ đều có màu kẹo ngọt và nằm đúng chỗ của chúng. Chiếc Ferolind có đang đợi sẵn ở cảng, duyên dáng với lá cờ Kerch và hai màu sơn cam - xanh nổi bật của công ty Haanraadt Bay không? Nếu kế hoạch diễn ra theo đúng như mong đợi của Kaz, đêm mai họ sẽ xuống bến cảng cùng với Bo Yul-Bayur, nhảy lên con thuyền của mình và giương buồm ra khơi trước khi phía Fjerda kịp phát giác vụ việc. Cô không thích nghĩ tới viễn cảnh đêm mai nếu kế hoạch đổ bể. Inej đưa mắt nhìn lên Lâu Đài Băng sừng sững như một người lính gác đồ sộ trắng muốt đứng trên vách đá cao trông xuống hải cảng. Theo lời Matthias thì vách đá kia không thể leo lên được, và cô phải thừa nhận đấy là một thử thách thực sự ngay cả với Bóng Ma. Nó cao không tưởng tượng nổi, và nhìn từ xa, bề mặt nhẵn nhụi trắng phau của nó sáng bóng như mặt băng. “Đại bác kìa,” Jesper lên tiếng. Kaz nheo mắt nhìn lên những cỗ súng lớn chĩa thẳng ra vịnh biển. “Tôi đã đột nhập vào nhà băng, kho hàng, tư dinh, bảo tàng, hầm vàng, thư viện sách quý, thậm chí là phòng ngủ của một nhà ngoại giao người Kaelish có bà vợ đam mê ngọc lục bảo. Nhưng tôi chưa bao giờ bị một khẩu đại bác chĩa vào người.” “Chuyện gì cũng có lần đầu,” Jesper bình phẩm. Inej mím môi lại. “Hi vọng chúng ta không xui đến mức ấy.” “Mấy khẩu thần công kia là để chặn đứng những chiến hạm định ho he xâm lược,” Jesper đáp với giọng tự tin. “Chúng không thể bắn trúng một con thuyền nhỏ hai buồm rẽ sóng đi tìm của cải và vinh quang.” “Tôi sẽ dẫn lại lời anh khi quả đạn đại bác rơi vào lòng tôi,” Nina lên tiếng. Họ dễ dàng hoà vào dòng người ở điểm giao cắt giữa vách đá và con đường dẫn lên Thượng Djerholm ở phía bắc. Khu vực trên này là vùng mở rộng của đô thị bên dưới, một tập hợp lộn xộn gồm các cửa hàng, chợ búa, quán trọ để phục vụ cho các lính gác và nhân viên làm việc trong Lâu Đài Băng, cũng như các du khách. May mắn là đám đông đủ lớn và sặc sỡ để một nhóm người ngoại quốc có thể di chuyển mà không bị để ý, và Inej cảm thấy dễ thở hơn một chút, cô đã lo rằng mình và Jesper có thể bị nghi ngờ khi đi giữa biển tóc vàng của Fjerda. Có lẽ nhóm người nước Shu Han cũng dùng sự đa dạng của đám đông để che chở cho họ. Không khí của lễ hội Hringkälla tràn ngập khắp nơi. Cửa hàng cửa hiệu trưng ra những chồng bánh tiêu nướng có hình dạng con sói, hoặc treo chúng lủng lẳng như đồ trang trí trên các cây to có cành vặn xoắn. Cây cầu bắc qua hẻm sông được trang trí với hoa và ruy băng màu xám bạc - màu sắc của Fjerda. Cầu có hai chiều: một đi tới Lâu Đài Băng và một quay về. Liệu ngày mai họ có băng qua cây cầu này trong tư thế của người chiến thắng hay không? “Mấy cái kia là gì vậy?” Wylan thắc mắc khi dừng lại trước một xe đẩy bán hàng rong chất đầy những vòng hoa được làm từ các nhánh cây vặn xoắn và dây ruy băng màu xám bạc. “Cây tần bì,” Matthias đáp. “Vật linh thiêng dành cho Djel.” “Nghe nói có một cây tần bì trên Bạch Đảo,” Nina nói, phớt lờ ánh mắt cảnh báo của anh chàng người Fjerda. “Đó là nơi các drüskelle tập hợp lại để làm lễ.” Kaz gõ cây gậy chống xuống đất. “Tại sao đến bây giờ tôi mới được cho biết chi tiết này lần đầu tiên?” “Cây tần bì được nâng đỡ bằng linh hồn của Djel,” Matthias đáp. “Đó là nơi chúng tôi có thể nghe thấy giọng nói của ngài tốt nhất.” Mắt Kaz long lên. “Đó không phải là điều tôi hỏi. Tại sao nó không có trong kế hoạch của chúng ta?” “Bởi vì đó là nơi linh thiêng nhất Fjerda, và không quan trọng đối với nhiệm vụ của chúng ta.” “Tôi mới là người quyết định cái gì quan trọng, còn điều gì anh cố tình bỏ quên không đấy?” “Lâu Đài Băng là một cấu trúc rất rộng lớn,” Matthias quay mặt đi. “Tôi không thể nhớ hết mọi ngóc ngách của nó được.” “Vậy thì anh hãy hi vọng không có gì rình rập trong mấy cái ngóc ngách đó đi,” Kaz đáp. Thượng Djerholm không có một khu trung tâm thực sự, nhưng nhiều tửu quán, nhà trọ và sạp chợ tập trung quanh chân quả đồi dẫn lên Lâu Đài Băng. Kaz dẫn họ đi tưởng chừng như không có định hướng qua nhiều con phố cho đến khi gặp một tửu quán xập xệ có tên Gestinge. “Ở đây á?” Jesper phàn nàn và đưa mắt nhòm vào gian phòng chính ẩm thấp, nồng nặc mùi tỏi và cá. Kaz chỉ liếc mắt đầy ý nhị lên phía trên và đáp: “Sân thượng.” “Gestinge nghĩa là gì nhỉ?” Inej thắc mắc. “Nó có nghĩa là ‘thiên đường’,” Matthias đáp. Ngay cả anh ta cũng tỏ ra ngờ vực. Nina giúp cả nhóm đặt một bàn trên sân thượng của quán. Ở đấy gần như không có người khách nào vì thời tiết vẫn còn quá lạnh. Hoặc cũng có thể mọi người bị dọa chạy mất bởi đồ ăn - cá trích ngâm dầu trở mùi, bánh mì đen cứng quèo, và bơ trông như bị mốc. Jesper nhìn xuống đĩa thức ăn của mình và rên rỉ. “Kaz, nếu anh muốn giết tôi thì hãy tặng một viên đạn, chứ đừng có đầu độc thế này.” Nina nhăn mũi. “Đến tôi mà cũng không muốn ăn là anh đủ biết rồi đó.” “Chúng ta vào đây là vì tầm quan sát, chứ không phải đồ ăn.” Từ bàn của mình, họ có thể quan sát rõ ràng, tuy hơi xa, lớp cổng ngoài và chốt gác đầu tiên của Lâu Đài Băng. Nó được xây như một cổng vòm mầu trắng ghép lại từ hai con sói đá đồ sộ đứng trên chân sau, và nối với con đường dẫn lên đồi tới lâu đài. Inej và những người khác quan sát các phương tiện đi qua cổng thành trong lúc nhơi bữa trưa, chờ đợi dấu hiệu của đoàn xe chở tù. Sự ngon miệng của cô cuối cùng cũng quay lại, và cô đã ăn nhiều hết mức có thể cho lại sức, nhưng lớp váng trên bát súp khiến cô không muốn ăn. Quán không phục vụ cà phê, nên họ gọi trà và những li brännvin nhỏ đốt cháy thực quản trong khi chảy xuống dạ dày, nhưng nhờ đó giúp họ giữ ấm khi cơn gió nổi lên, khuấy động đám dây ruy băng bạc buộc trên những cành cây tần bì trồng dọc theo con đường bên dưới. “Chúng ta sắp trở nên đáng nghi đấy,” Nina nói. “Đây không phải là nơi mọi người thích ngồi lâu.” “Hay là bọn họ chẳng có ai để tống vào tù?” Wylan phỏng đoán. “Lúc nào cũng có người cần tống vào tù,” Kaz đáp, đồng thời hất hàm về phía con đường. “Nhìn kìa.” Một cỗ xe tứ mã vuông vức dừng lại trước chốt gác. Mái và hai mặt bên hông được phủ vải bạt đen hù. Cánh cửa phía sau làm bằng sắt dày, có cài then và được gắn ổ khoá. Kaz thò tay vào trong túi áo khoác. “Đây,” anh nói và đưa cho Jesper một cuốn sách mỏng có bìa cầu kì. “Đến giờ đọc sách cho nhau nghe à?” “Cứ mở ra đi, trang cuối ấy.” Jesper mở sách và lật tới trang cuối, bối rối tợn. “Rồi sao?” “Giơ nó lên để chúng tôi không phải nhìn cái bộ mặt xấu hoắc của cậu.” “Xấu nhưng cá tính nhé. với lại… Ồ!” “Sách hay chứ hả?” “Ai mà ngờ được tôi lại hứng thú với văn học như thế này?” Jesper đưa sách cho Wylan. Cậu nhóc ngập ngừng cầm lầy. “Sách viết gì thế?” “Cứ đọc đi,” Jesper giục. Wylan nhíu mày và giơ sách lên, rồi nhoẻn cười. “Anh kiếm được cái này ở đâu vậy?” Matthias thốt lên một tiếng ngạc nhiên khi đến lượt mình. “Nó gọi là sách không bìa,” Kaz nói trong lúc Inej đỡ lấy quyển sách từ tay Nina và giơ lên. Các trang sách dày đặc những bài thuyết giáo tầm thường, nhưng cái bìa sau chạm trổ cầu kì của nó che giấu hai thấu kính có thể được sử dụng như ống nhòm. Kaz đã bảo cô lưu ý những người phụ nữ sử dụng gương con với cấu tạo tương tự tại Quạ Đen. Bọn họ có thể xem trộm các lá bài từ xa, rồi ra hiệu với đồng bọn đang ngồi chơi bài. “Thông minh đấy,” Inej nhận xét khi đưa mắt nhìn qua hai thấu kính. Với người phục vụ quầy bar và các vị khách hiếm hoi trên sân thượng, bọn họ có vẻ như đang chuyền tay nhau một quyển sách và thảo luận về đoạn văn thú vị nào đó. Nhưng thật ra Inej đang quan sát cổng thành cùng cỗ xe chở tù đậu phía trước. Cánh cổng nằm giữa hai con sói chồm trên chân sau được làm bằng sắt rèn và mang biểu tượng cây tần bì linh thiêng. Hai bên cổng thành là một hàng rào cao có gắn cọc nhọn bao quanh khuôn viên lâu đài. “Bốn lính,” cô ghi nhận, đúng như Matthias đã nói từ trước. Mỗi bên cổng có hai lính gác đứng, một người trong số họ đang nói chuyện với người đánh xe của cỗ xe tù. Người đánh xe đưa cho anh ta một gói tài liệu. “Đó là lớp bảo vệ đầu tiên,” Matthias cho biết. “Họ kiểm tra giấy tờ và xác nhận danh tính, đánh dấu bất kì người nào mà họ nghĩ là cần xem xét kĩ hơn. Vào giờ này ngày mai, dòng phương tiện đi qua cổng sẽ chở toàn các khách mời của Hringkälla, và an ninh sẽ được thắt chặt cho tới hẻm sông.” Mời các bạn đón đọc Phi Vụ Bất Khả của tác giả Leigh Bardugo & Hoàng Anh (dịch).

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6