Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Luật Nhà
Jacob Hunt là một đứa trẻ tự kỷ có trí thông minh phi thường và đam mê ngành khoa học pháp y. Cậu sống với  người mẹ tận tụy và cậu em trai đang tuổi nổi loạn.  Một ngày nọ, Jacob vướng vào một rắc rối lớn: cậu bị buộc tội sát hại chính gia sư kỹ năng của mình. Tất cả chứng cứ đều chống lại cậu. Với kỹ năng giao tiếp hạn chế do chứng tự kỷ gây ra, Jacob càng làm vấn đề trầm trọng thêm, bất chấp những nỗ lực của mẹ cậu, luật sư bào chữa và các bác sĩ, nhà tâm lý đang cố đưa cậu thoát khỏi vấn đề này... Ngòi bút bậc thầy của Jodi Picoult một lần nữa sẽ đưa bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, với những kiến thức đáng kinh ngạc trong nhiều lĩnh vực và khả năng đào sâu vào từng ngóc ngách tâm lý của con người. *** “LUẬT NHÀ” CỦA JODI PICOULT - KHI LỜI RĂN CỦA MẸ LÀ TỐI THƯỢNG Update Date: 11/01/2019 Jacob Hunt – 18 tuổi - mắc chứng tự kỷ Asperger, rất thông minh, giỏi khoa học pháp y nhưng gặp vấn đề với các giao tiếp xã hội thông thường. Theo Hunt – 15 tuổi – em trai Jacob, luôn mặc cảm, cô đơn vì gia đình khác biệt, thèm khát một mái ấm bình thường. Emma Hunt – 40 tuổi - mẹ của Jacob, vất vả với vai trò người mẹ đơn thân, để bảo vệ con mình mà có thể chống cả thế giới. Cả ba mắc kẹt trong một vụ án mạng nghiêm trọng, tàn nhẫn mà nạn nhân chính là cô gia sư giỏi giang và đáng mến của Jacob. Khi đứa trẻ 18 tuổi mắc chứng Asperger trở thành kẻ tình nghi số 1, làm thế nào để cậu và gia đình vượt qua bão tố? Cuốn tiểu thuyết mang tầm vóc của một cuộc nghiên cứu tâm lý vĩ đại Jodi Picoult là nữ tác gia nổi tiếng trên toàn thế giới về những đề tài gai góc có tính thời đại. Với “Luật nhà” viết về Asperger, một hội chứng tự kỷ vẫn còn mới mẻ với toàn nhân loại, Jodi Picoult đã khiến người đọc phải thốt lên hai từ “Khâm phục”. Không chỉ đề cập đến những góc độ diễn biến tâm lý phức tạp của một người mắc hội chứng tự kỷ, “Luật nhà” có giọng văn lôi cuốn với nhiều giọng kể khác nhau cho thấy sự nhập vai hoàn hảo vào từng nhân vật, với những chi tiết và cảm xúc chân thật khiến người đọc xúc động. Nhận xét “Luật nhà” là giáo trình tâm lý bài bản để thấu hiểu về hội chứng Asperger nói riêng và tự kỷ nói chung cũng thật không ngoa. Từng con chữ lột tả, phơi bày trần trụi những góc khuất sâu kín nhất trong tâm lý của trẻ tự kỷ. Qua từng chương, người đọc sẽ dần hiểu thật cặn kẽ, tường tận mọi hành động, cảm giác, khao khát được kết nối với xã hội, và căn nguyên của những cơn bộc phát từ Jacob. Người đọc cũng sẽ đồng cảm với Emma, người mẹ can trường và nhẫn nại, hình mẫu phụ nữ hiện đại chứa đựng tình thương bao la dành cho con cái. Còn là cảm giác xót xa rất thực khi nhập vai cậu thiếu niên Theo 15 tuổi bơ vơ, lạc lõng, hoang mang tột độ trên con đường trưởng thành, khám phá cuộc đời. Một câu chuyện cảm động về gia đình “Luật nhà” chứa những giá trị cuộc sống căn bản mà bất cứ thời đại nào cũng cần học hỏi. Đó chính là “nếp nhà”, là cách để giữ ngọn lửa yêu thương cho gia đình. Trung tâm của “Luật nhà” ở đây là Emma. Người phụ nữ kiên cường này bị chồng bỏ rơi ngay khi cô phát hiện đứa con trai đầu vừa lên ba tuổi đang khỏe mạnh, thông minh, lanh lợi, hoạt bát đột nhiên không giao tiếp và bị chẩn đoán là tự kỷ. Người mẹ này lại đang mang bầu đứa con trai thứ 2, hoàn toàn khỏe mạnh và rất bình thường, nhưng thiệt thòi ngay từ khi cậu vừa sinh ra do thiếu thốn tình thương của bố. Emma không phải là siêu nhân. Bà cố gắng bằng mọi cách giúp Jacob hòa nhập với xã hội, đồng nghĩa với quỹ thời gian không có chỗ dành cho đứa con trai nhỏ.  Luật nhà của Emma 1. Dọn sạch đống bày bừa của mình 2. Nói thật 3. Đánh răng hai lần mỗi ngày 4. Không trễ học 5. Chăm sóc anh em của mình, nó là người duy nhất con có Nghe có vẻ thật đơn giản, nhưng đối với một gia đình rất không bình thường như gia đình Emma, để bọn trẻ tuân theo luật lệ không hề dễ dàng. Theo dõi từng trang sách, người đọc sẽ từ đồng cảm đi đến cảm phục ý chí và cố gắng cân bằng cuộc sống của người phụ nữ này. Người đọc cũng sẽ xúc động trước tình cảm của anh em Jacob và Theo dành cho nhau, mặc dù thứ tình cảm đó không biểu hiện với vẻ ngoài dễ chịu thường thấy: Jacob luôn hành động theo bản năng tự bảo vệ mình và có thể làm tổn thương em trai theo đúng nghĩa đen. Còn Theo, đứa trẻ đang bước vào giai đoạn khủng hoảng tuổi thiếu niên, luôn muốn anh trai mình biến mất. Khi cuộc đời xô gia đình họ xuống vực sâu, chính Luật nhà của mẹ là sợi dây giúp Emma, Jacob và Theo thoát lên miệng vực.  Trên hết, nó vẫn là một cuốn tiểu thuyết điều tra gay cấn Trọng tâm của “Luật nhà” là một vụ án mạng. Bên cạnh ba mẹ con Emma, thế giới của những người thi hành và bảo vệ luật pháp, các luật sư, công tố viên, thám tử… hiện lên thật sống động và chân thực. Bạn sẽ bị cuốn theo từng tình tiết của câu chuyện, gỡ dần từng nút thắt của vụ án. Bạn cũng sẽ kinh ngạc trước sự hiểu biết về khoa học hình sự, khoa học pháp y của Jacob, cũng như khâm phục bởi công trình ngiên cứu kỹ lưỡng và kiến thức sâu sắc của nữ tác giả. Ai là kẻ giết người? Có phải là Jacob – Nghi can số 1 của vụ án, kẻ giết người máu lạnh thích thú với việc phục dựng hiện trường hoàn hảo? Hạy Mark – Kẻ sẵn sàng dùng vũ lực với người mà hắn yên thương nhất. Cũng có thể là Theo, nhân vật vô tình xuất hiện vào thời điểm xảy ra vụ án và nhìn thấy nữ nạn nhân trong tình huống oái oăm nhất? Hãy tự tìm cho mình câu trả lời, khi lần giở từng trang sách của câu chuyện điều tra đặc biệt hấp dẫn này. “Tôi cố gắng vác cô ấy vào rừng, nhưng càng đi cô ấy càng nặng, nên sau một hồi, tôi quyết định kéo lê cô ấy đi. Tôi muốn để cô ấy ở chỗ nào tôi biết là cô không phải chịu gió lạnh, mưa hay tuyết. Tôi thích ông cống, bởi tôi có thể vào đó từ đường cao tốc, thay vì phải băng qua nhà cô. Tôi nghĩ vè cô ấy ngay cả khi tôi chưa ở đây, ngay cả khi tôi biết cảnh sát đang tìm kiếm và tôi có thể dễ dàng bị phân tâm khi muốn theo dõi tiến trình của họ. Vì thế, tôi trở lại thăm cô ấy, và mang theo tấm mền của tôi. Tôi luôn thích tấm mền đó, và tôi nghĩ nếu cô ấy có thể nói, cô hẳn sẽ rất tự hào khi tôi khoác cho cô tấm mền đó. Làm tốt lắm, Jacob, cô ấy sẽ nói thế. Cậu nên đổi nó cho ai đó đi!” - Trích *** VỀ TÁC GIẢ: Nữ tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult Nữ văn sĩ nổi tiếng bởi những tác phẩm liên quan về những đề tài xã hội có tính gây tranh luận, đào sâu và lột trần bản chất của vấn đề và khiến người ta buộc phải suy ngẫm. Ở tuổi 42, chị đã xuất bản 16 đầu sách và là một trong những tiểu thuyết gia bán chạy nhất thế giới. “Điều gây ngạc nhiên lớn là tôi vẫn nỗ lực viết và có những đứa con. Tôi thường xuyên "quẳng" con cho chồng khi anh về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Anh sẽ trông chúng cả buổi tối để tôi viết lách. Nhưng với tôi, lũ trẻ vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất. Tôi có thể bay suốt 24h để về nhà ngay cho kịp dự một buổi lễ ở trường với con. Nếu bạn muốn, bạn vẫn có thể vừa là một nhà văn tài năng vừa là một người mẹ tốt.” – Trích phỏng vấn Jodi Picoult (Nguồn: Time) *** TRI ÂN Như thường lệ, có quá nhiều người tôi cần ngỏ lời tri ân. Đội ngũ pháp lý xuất sắc của tôi: Jennifer Sternick và Lise Iwon; cũng như Jennifer Sargent, Rory Malone, và Seth Lipschutz. Những cảnh sát điều tra hiện trường đã chỉ dẫn cho tôi: Hạ sĩ Claire Demarais, Betty Martin, Beth Anne Zielinski, Jim Knoll, Trung úy Dennis Pincince, Trung úy Arthur Kershaw, Trung sĩ Richard Altimari, Trung úy John Blessing, Thám tử John Grassel, Cô Robin Smith, Bác sĩ Thomas Gilson, Bác sĩ Peter Gillespie, Thám tử Patricia Cornell thuộc Sở cảnh sát Providence, Cảnh sát về hưu Trooper Robert Hathaway thuộc Sở cảnh sát Tiểu bang Connecticut, Trung úy Ed Downing thuộc Sở cảnh sát Providence, Amy Duhaime, và Kim Freeland. Katherine Yanis và Jacob con trai cô ấy đã vô cùng rộng tay đóng góp cho tổ chức Tiếng nói Tự kỷ Anh quốc, và cũng là cảm hứng để tôi đặt tên cho nhân vật chính của truyện này. Jim Taylor, người cung cấp tiếng lóng ngành vi tính cho nhân vật Henry, và cũng là người lập cho tôi một trang web dành cho tác giả đẹp nhất tôi từng thấy. Cảnh sát trưởng Nick Giaccone đã giúp tôi hiểu các thủ tục của cảnh sát. Julia Cooper giúp tôi bằng kiến thức chuyên ngành ngân hàng của mình. Và đội ngũ xuất bản của tôi: Carolyn Reidy, Judith Curr, Kathleen Schmidt, Mellony Torres, Sarah Branham, Laura Stern, Gary Urda, Lisa Keim, Christine Duplessis, Michael Selleck, đội kinh doanh, và tất cả những người đã cất công tìm kiếm và mời gọi những người chưa từng biết đến tôi. Biên tập viên của tôi, Emily Bestler, cô đã thực sự khiến tôi quên mất đây là công việc, bởi làm việc với cô thật quá vui. Người phụ trách quan hệ công chúng của tôi, Camille McDuffie, cô vẫn luôn phấn khích mỗi khi thấy tôi lên mặt báo. Quản lý của tôi, Laura Gross, người đem lại những câu chuyện hài tuyệt vời trong những chuyến đi căng thẳng, và cô không bao giờ quên chúng tôi là một nhóm làm việc tuyệt vời. Mẹ tôi. Chúng ta không được chọn bố mẹ cho mình, nhưng nếu được chọn, tôi vẫn chọn mẹ tôi. Bố tôi. Bởi tôi chưa bao giờ chính thức nói lời tri ân ông vì đã quá tự hào về tôi. Tôi cũng ngỏ lời cảm ơn rất nhiều người đã chia sẽ cảm nghiệm riêng của mình về hội chứng Asperger. Linda Zicko và con trai Rich, Laura Bagnall và con trai Alex Linden. Jan McAdams và con trai Matthew, Deb Smith và con trai Dylan, Mike Norbury và con trai Chris, Kathleen Kirby và con trai David, Kelly Meeder và hai cậu con trai Brett và Derek, Catherine McMaster, Charlotte Scott và con trai James, Tiến sĩ Boyd Haley, Lesley Dexter và con trai Ethan, Sue Gerber và con gái Liza, Nancy Albinini và con trai Alec, Stella Chin và con trai Scott Leung, Michelle Destefano, Katie Lescarbeau, Stephanie Loo, Gina Crane và Bill Kolar and và con trai Anthony, Becky Pekar, Suzanne Harlow và con trai Brad. Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Ronna Hochbein, một tác giả thông tuệ, đã làm việc với những đứa trẻ tự kỷ, và bà không chỉ là nguồn thông tin quý giá cho tôi về vacxin và chứng tự kỷ, mà còn sắp xếp cho tôi gặp phỏng vấn trực tiếp các bé và bố mẹ chúng. Tôi không biết phải cảm ơn Jess Watsky bao nhiêu cho đủ. Cô còn xứng đáng hơn thế, tôi cảm thấy mình bé nhỏ trước cô, vô cùng tri ân và muốn làm theo cô trong mọi chuyện. Là một thiếu nữ mang hội chứng Asperger, cô không chỉ cho tôi đi vào cuộc sống và ký ức của mình, mượn lấy một vài ký ức và sự việc để đưa vào trang sách, mà cô còn đọc từng từ của quyển sách này với tốc độ ánh sáng, rồi cho tôi biết đoạn nào khiến cô bật cười và đoạn nào nên sửa lại. Cô là trái tim của tiểu thuyết này. Không có cô, tôi không tài nào tạo nên được một nhân vật như Jacob. Và cuối cùng, nhưng không bao giờ kém quan trọng, xin cảm ơn Tim, Kyle, Jake, và Sammy. Chỉ cần anh và ba con, thì em sẽ là người phụ nữ giàu có nhất trên đời. Mời các bạn đón đọc Luật Nhà của tác giả Jodi Picoult & Thái Hòa (dịch).
Chờ Mặt Trời Lên
Chờ mặt trời lên là một cuốn tiểu thuyết trinh thám li kì về chàng diễn viên đẹp trai, hào hoa, Lysander Rief, khi bị ép phải dấn thân vào cuộc đời một điệp viên để giải mã những bí ẩn liên quan đến vận mệnh của Tổ quốc. Năm 1913, Lysander từ Anh quốc đến Vienna để chữa trị chứng rối loạn cực khoái cảm – một vấn đề tế nhị nhưng có ý nghĩa sống còn với cuộc đời mỗi con người. Đúng tại đây, anh gặp Hettie Bull, một cô nàng nghệ sĩ có vẻ đẹp lạ lùng, có khả năng từng bước chế ngự anh, chữa khỏi bệnh cho anh, dù rằng mỗi người đều đang có một nửa của mình. Những tháng ngày ngất ngây vụng trộm trong tình yêu tưởng chừng cứ vậy trôi qua bất chấp tất cả, thì bất ngờ Hettie cáo buộc Lysander tội cưỡng dâm, đẩy anh vào những tình huống vô cùng khổ sở vật vã, đến mức phải đào tẩu trở về quê nhà nhờ sự giúp sức của những nhân viên ở đại sứ quán Anh đi kèm điều kiện là một khoản tiền nợ mà Lysander phải mất cả đời để trả. *** Sinh năm 1952, William Boyd là một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Scotland. Các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đã được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ và dành nhiều giải thưởng lớn trên các văn đàn thế giới, đặc biệt là về truyện trinh thám, điệp viên. Trong đó có A Good Man in Africa, đạt giải Whitbread và Somerset Maugham; An Ice-cream War đạt giải John Llewllyn Rhys và được đề cử cho giải Booker; Brazzaville Beach đạt giải James Tait Black Memorial, Any Human Heart đạt giải Prix Jean Monnet; Restless đạt giải Costa Novel of the Year… Vào tháng 4 năm 2012 William Boyd được tổ chức Ian Fleming (tổ chức duy trì và bảo tồn các tác phẩm về James Bond từ khi tác giả Ian Fleming qua đời mời chắp bút cho phần tiếp theo câu chuyện của siêu Điệp viên 007 James Bond. Dự kiến cuốn tiểu thuyết sẽ được công bố vào mùa thu năm 2013, nhân dịp kỷ niệm 60 năm kể từ ngày Ian Fleming ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên về Điệp viên 007. *** 1913, chàng diễn viên điển trai ăn mặc bảnh bao người Anh, Lysander Rief đang rảo bước trên những con phố thành Vienna với tâm trạng bồn chồn, rối bời trước buổi trị liệu tâm lí đầu tiên với bác sĩ Bensimon. 1914, Binh nhì Lysander Rief đã tình nguyện nhập ngũ khi chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, với nhiệm vụ là tiếp xúc và trấn an các tù binh người nước ngoài bị tạm giam tại Anh. 1915, Đại úy Lysander Rief, một quân nhân được biệt phái đến Bộ Tham mưu của Anh với quyền hạn và nhiệm vụ vô cùng đặc biệt của một điệp viên ngầm giữa thế giới đầy rối ren, nơi ranh giới giữa sự thật và dối trá chỉ mong manh trong chớp mắt. Anh phải tìm ra chìa khóa giải mã bí mật liên quan đến sự an nguy của Anh quốc, và phải sử dụng tất cả các kỹ năng có thể để thế giới tối tăm của những nghi ngờ và phản bội không xâm phạm và làm phương hại đến cuộc sống của anh - mẹ anh, con trai anh, và những người anh yêu thương. Chờ mặt trời lên là một cuộc hành trình vào miền tâm lý con người, một bức tranh khổng lồ về chiến tranh Thế giới thứ nhất ở châu Âu, một cốt truyện đan xen nhiều tình tiết như một cuộc đua đầy áp lực đến nghẹt thở, và một hồi kết vô cùng bất ngờ nhưng cũng thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc. *** Điều ngỡ là thật lúc bình minh sẽ là ảo ảnh dưới nắng trưa. ERNEST HEMINGWAY Nói dối thật chẳng ra gì; nhưng khi sự thực có nguy cơ gây ra một cú sốc kinh khủng thì nói dối có thể tha thứ được. SOPHOCLES “Một siêu phẩm. Đọc truyện của William Boyd giống như mở một chai rượu, châm lửa hút thuốc, ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành và chắc chắn rằng tác phẩm này sẽ đưa bạn đến một chuyến đi vô cùng thú vị mà không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra”. (The Spectator - UK) “Hơn hết thảy, Chờ mặt trời lên là một dấu mốc điển hình của cách kể chuyện: tinh khôn, khéo léo, hài hước, và luôn luôn cuốn hút… Đây là sự kiện văn học của năm”. (The Times - UK) “Một tiểu thuyết về điệp viên đầy gợi mở và có nhịp độ nhanh…” (The New York Times Book Review) *** Một Anh chàng khá Điển trai MỘT NGÀY HÈ trời trong và rực rỡ tại Vienna. Bạn đang đứng giữa một vùng nắng vàng chanh hình sao năm cánh nghiêng, tại một góc ngoặt giữa đường Augustiner Strasse và đường Augustinerbastei, đối diện nhà hát opera. Bạn đứng đó lười nhác ngắm nhìn cả thế giới trôi qua trước mắt, đợi chờ ai hay điều gì khiến bạn chú ý và run lên vì phấn khích. Không khí của thành phố hôm nay có vẻ lạnh lẽo đến kinh ngạc, gần giống như mùa xuân dù đã qua lâu rồi. Nhưng bạn vẫn nhận ra một chút cái bồn chồn của mùa xuân ở những người đi qua, sự sôi nổi tiềm tàng trong không khí và có thể là cả sự liều lĩnh - dù tại thành Vienna này, chẳng ai dám nói sự liều lĩnh ấy có thể là cái gì… Dù thế bạn vẫn mở to mắt, bình thản đến lạ lùng, sẵn sàng đón nhận bất kì điều gì - một mẩu vụn bánh mì hay một đồng xu lăn - mà thế giới này có thể ném xuống con đường bạn đang đi. Và rồi bạn thấy- ngay bên phải một thanh niên đang sải bước ra khỏi công viên Hofgarten. Độ ba mươi tuổi, có thể gọi là đẹp trai, nhưng anh ta hấp dẫn bạn vì không đội mũ, một điều bất thường giữa đám đông dân Vienna hối hả này, ai cũng mang mũ, nam cũng như nữ. Và khi anh đi lướt qua, bạn sẽ phải để ý đến mái tóc nâu đẹp nhẹ bay theo gió, bộ vest màu xám nhạt và đôi giày màu máu bò bóng lộn. Anh có vóc người trung bình nhưng đôi vai rộng, khổ người cân đối của dân thể thao. Bạn sẽ nhận ra điều này khi anh chỉ cách bạn hai bước chân. Mày râu nhẵn nhụi - cũng là một điều lạ ở nơi đây, thành phố của râu ria - và tấm áo choàng được may rất khéo, bó sát eo lưng cùng những nếp gấp tỉ mỉ của chiếc khăn tay lụa màu xanh nhạt nằm hững hờ trên túi áo ngực. Có điều gì đó kĩ tính và thận trọng trong cách ăn mặc - có thể thấy anh khá đẹp trai nên cũng có vẻ là một kẻ biết ăn diện. Bạn quyết định đi theo anh vài phút, vì vô tình bị hấp dẫn và cũng vì chẳng có việc gì hay hơn để làm. Trên đường vào quảng trường Michaeler Platz, người thanh niên ấy đột ngột dừng bước, nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên tấm biển quảng cáo rồi lại đi, gấp gáp, như thể không muốn trễ một cuộc hẹn. Bạn theo anh đi quanh khu phố và rẽ vào đường Herrengasse - vài tia nắng chiếu xiên rọi sáng những chi tiết trên các tòa nhà khổng lồ, vững chắc, phủ bóng đen sắc lạnh, tối om lên các cột tượng đàn bà và các trụ ngạch, trán tường và mái gờ, lan can và dầm đầu cột. Anh dừng chân tại một ki ốt bán báo và tạp chí nước ngoài, chọn mua tờ The Graphic, mở ra đọc các đề mục. À, anh là người Anh - thế mới chán - hết cả hứng tò mò. Bạn quay về chỗ có ánh mặt trời nắm góc lúc nãy, hi vọng sẽ bắt gặp được vài thứ hấp dẫn hơn, bỏ mặc chàng người Anh sải bước đến bất kỳ đâu và gặp bất kì ai anh ta muốn… Tay lơ đãng vuốt nhẹ mái tóc thẳng đẹp, Lysander Rief trả tiền mua tờ Graphic số ra ba ngày trước (bản nước ngoài), liếc nhìn vào một đề mục - “Hiệp định đình chiến được ký kết tại Bucharest - Kết thúc Chiến tranh Balkan lần Thứ hai”. Cái mũ! Chết tiệt. Anh quên đâu nhỉ? Trên ghế đá ở Hofgarten - dĩ nhiên rồi - nơi anh đã ngồi mất mười phút nhìn chằm chằm một luống hoa trong thế tiến thoái lưỡng nan đầy sợ hãi, bối rối tự hỏi có phải mình đang làm đúng, bất ngờ cảm thấy không tin tưởng vào bản thân với chuyến đi đến Vienna lần này và tất cả những gì được cảnh báo trước đó. Nếu tất cả là một sai lầm, vô vọng và về cơ bản là vô nghĩa thì sao? Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Mẹ kiếp, lại thế rồi. Anh sẽ trễ hẹn nếu quay lại. Anh thích cái mũ rơm vành hẹp với dải lụa màu nâu sẫm, mua ở hiệu Lockett trên phố Jermyn. Người ta sẽ lấy nó ngay thôi, anh chắc chắn - một lý do khác để không cần quay lại thêm lần nữa tự nguyền rủa sự sao nhãng của mình và tiếp tục sải bước lên đường Herrengasse. Qua chuyện này bạn có thể thấy anh căng thẳng, bối rối như thế nào. Rời khỏi chiếc ghế đá và quên biến cái mũ. Rõ ràng sự căng thẳng hoàn toàn dễ hiểu và rõ nét kia vẫn chưa nói hết được sự khiếp đảm, hốt hoảng của anh trước buổi gặp này. Bình tĩnh, anh tự nhủ, lắng nghe tiếng lộp cộp đều đặn của những miếng kim loại hình trăng lưỡi liềm dưới gót giày da khua trên mặt đường lát đá - bình tĩnh, Chỉ là một cuộc hẹn đầu tiên thôi - ta có thể bỏ đi, quay về London - chẳng ai ép ta phải đến đó. Anh thở mạnh. “Đó là một ngày đẹp trời tháng Tám năm 1913”, anh tự nói thành tiếng nhưng bằng giọng thấp để thay đổi chủ đề và điều chỉnh lại tâm trạng mình. “Es war ein schöner Augusttag des Jahres.. à năm 1913”, anh lặp lại bằng tiếng Đức, thêm phần ngày tháng bằng tiếng Anh. Lysander gặp rắc rối với những con số - những số dài và ngày tháng. Dù vốn tiếng Đức đang tiến bộ nhanh nhưng anh vẫn phải hỏi ông Barth, giáo viên tiếng Đức trong khoảng một tiếng về những con số, để cố gắng ghim chúng vào đầu. “Ein schone Augusttag”. Anh thấy một tấm áp phích khác bị xé trên tường, giống tấm áp phích anh đã để ý khi vào Michaeler Platz - đây là lần thứ ba anh thấy nó kể từ khi rời khỏi phòng trọ sáng nay. Tấm áp phích bị xé nham nhở trên pa nô. Tấm đầu tiên - ngay cạnh trạm chờ tàu điện ngầm gần căn phòng anh đang thuê - anh tập trung nhìn phần cơ thể còn lại (cái đầu đã mất) của một cô gái ăn mặc hở hang. Cô ta gần như khỏa thân, nằm co rúm, hai tay khum lại như muốn che giấu bộ ngực ngoại cỡ, đường cong mờ ảo nửa kín nửa hở của tấm mạng che tự tạo này chẳng thể che được đường nối đầy đặn ở hai hông cô ta. Sự lõa thể của bức họa này có điều gì đó hấp dẫn một cách đặc biệt, song lại cách điệu hóa bối cảnh xung quanh cô ta (cái tấm mạng bằng tay, nửa kín nửa hở ấy khiến anh phải dừng lại, nhìn gần hơn. Anh không hiểu nội dung bức ảnh này là gì vì mọi thứ khác đều đã bị xé hết. Tuy nhiên, trên tấm áp phích bị xé thứ hai, phần cuối còn thấy một cái đuôi thằn lằn có hình như vảy cá, có răng cưa. Điều này đã giải thích tại sao bức họa nữ thần, nữ chúa kia hay là gì đi nữa lại có vẻ đáng sợ như vậy. Và giờ đây trên tấm áp phích thứ ba chỉ còn một chữ “PERS…”, bên dưới là chữ “und” và dưới nữa là “Eine Oper von Gottlie Toll…”. Anh suy nghĩ “Pers… Persephone* à? Một vở nhạc kịch về Persephone? Chẳng phải cô ta đã bị lội xuống âm phủ và Narcissus* - đúng không nhỉ? - phải xuống theo để đưa cô ta lên mà không được phép nhìn xung quanh sao? Hay đó là Euridice*? Hay là cái gì đó… Orpheus à? Đây không phải lần đầu tiên anh bực tức trước trình độ kiến thức chắp vá và lập dị của mình. Anh chỉ biết rất rõ một vài thứ và hiếm khi hiểu biết được toàn bộ mọi chuyện. Anh đang từng bước cải thiện tình hình - đọc càng nhiều càng tốt, sáng tác thơ - nhưng cứ thỉnh thoảng sự ngu dốt lại nhìn thẳng vào mặt anh. Một trong những hạn chế đối với nghề nghiệp, anh thừa nhận là vốn kiến thức nhất định về thần thoại cổ đại và những gì liên quan đến nó là một đống hơi lộn xộn trong đầu, nếu không muốn nói là một cái lỗ hổng kiến thức to đùng. Anh quay lại nhìn tấm áp phích. Toàn bộ bức tranh bị xé gần hết chỉ còn lại nửa trên. Những nét lượn của mái tóc bay phần phật theo gió và đôi mắt mở to nhìn thẳng ra bờ mép tơi tả của vết rách nằm ngang, như thể cô ta đang nhìn chằm chằm lên phía trên tấm ga giường một cách khiếp đảm, Lysander nghĩ vậy. Ráp các mảnh còn lại của ba tấm áp phích với nhau, trong đầu anh bắt đầu tưởng tượng ra một cơ thể nữ thần. Lysander thấy mình bị kích động một chút, hơi cương cứng. Một cô nàng khỏa thân, trẻ trung, xinh đẹp, dễ bị tổn thương trước sự đe dọa của một con quỷ có vảy nào đó, không nghi ngờ gì nữa, nó có hình thù của dương vật, chuẩn bị hãm hiếp cô nàng… Và chắc chắn đây là nội dung của các tấm áp phích, hơn nữa, chính nó đã thổi bùng lên cơn phẫn nộ của giới tư sản kiểu cách khiến vài công dân ngoan đạo quyết định phá hủy nó. Tất cả đều rất hiện đại - đều rất Vienna - anh cho là vậy. Lysander tiếp tục sải bước, thận trọng phân tích tâm trạng của mình. Tại sao khi tự suy đoán khả năng người phụ nữ thần thoại bị hãm hiếp trên tấm áp phích kia lại làm anh hưng phấn nhỉ? Có tự nhiên không? Chính xác hơn, anh có liên quan gì đến hình ảnh ấy - đôi tay như che lấy, như ôm lấy bộ ngực mềm mại, nửa gọi mời nửa e ấp? Anh thở dài: ai có thể trả lời được những câu hỏi này cơ chứ? Trí tuệ con người luôn hỗn độn không ngừng nghỉ, phức tạp và bướng bỉnh. Anh tự ngừng lại - phải, phải, phải rồi. Đó chính xác là lí do tại sao anh phải đến Vienna. Anh băng qua đường Schottenring và khoảng không rộng rãi của quảng trường trước mặt một trường đại học rộng lớn mang màu xám đậm. Đó là nơi anh phải đến để tìm hiểu về Persephone - hỏi một vài sinh viên học chuyên ngành tiếng La tinh và Hy Lạp - nhưng có điều gì đó ngăn cản anh. Tuy nhiên, anh không thể nhớ ra tên con quỷ tham gia vào câu chuyện về Persephone… Kiểm tra những con phố mình đang đi qua - gần đến rồi - anh dừng lại chờ tàu điện đi qua, rẽ phải xuống đường Berggasse, rồi rẽ trái trên đường Wasgasse. Nhà số 42. Anh nuốt khan, miệng tự nhiên khô khốc, suy nghĩ: có lẽ mình nên quay đi, gói ghém đồ đạc, trở về London và tiếp tục cuộc sống bình yên, phẳng lặng. Nhưng anh tự nhủ rằng vẫn còn đó vấn đề đặc biệt của riêng mình, chưa được giải quyết… Anh bước qua những cánh cửa chính to, rộng trông ra phố của ngôi nhà số 42, đi thẳng vào sảnh lớn. Không thấy lễ tân hay bảo vệ. Một chiếc thang máy bằng thép sẵn sàng đưa anh lên tầng hai nhưng anh chọn đi cầu thang bộ. Một tầng. Hai tầng. Những ban công bằng sắt rèn, lan can bằng gỗ đánh véc ni, một loại đá granite lốm đốm tạo thành các bậc thang một tay vịn ốp tường, dưới chân là lớp gạch lát hoa văn cỏ xanh, trên đầu là lớp sơn trắng. Anh tập trung vào những chi tiết này, Cố gắng không nghĩ đến hàng tá - có lẽ là hàng trăm người đã từng bước lên những bậc cầu thang này trước cả anh. Anh lên đến chiếu nghỉ. Hai cánh cửa lắp vững chắc bên những ô cửa sổ hình bán nguyệt đứng cạnh nhau. Trên một ô đề “Phòng riêng”; ô kia có một tấm biển bằng đồng nhỏ phía trên chuông cửa riêng đã bị mờ, cần được đánh bóng. “Tiến sĩ J. Bensimon”. Anh đếm đến ba và rung chuông tự nhiên thấy vững tin vào điều đúng đắn đang làm, tự tin vào một tương lai mới mẻ, tốt đẹp hơn mà anh đang hoạch định để bảo đảm cho chính mình. Mời các bạn đón đọc Chờ Mặt Trời Lên của tác giả William Boyd & Nguyễn Quang Huy (dịch).
Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện
Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. ------------- Lisa Wingate là một cựu nhà báo, diễn giả truyền cảm hứng và là tác giả của hơn 30 tác phẩm bán chạy nhất của New York Times. Các tác phẩm của cô đã giành được nhiều đề cử cho các giải thưởng danh giá như Pat Conroy Southern Book Prize, Oklahoma Book Award, Carol Award và Christy Award. Bí ẩn trong Cô nhi viện là tác phẩm thành công nhất của Lisa Wingate với hơn 1,5 triệu bản in được bán và là tác phẩm nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times suốt hơn một thời gian dài. Tác phẩm đã được xuất bản tại hơn 35 quốc gia trên toàn thế giới. *** Câu chuyện dựa trên những tình tiết có thật về Georgia Tann (1891-1950), người điều hành Hội Cô nhi viện Tennessee. Bà ta đã bán và thu lợi bất chính từ những đứa trẻ "mồ côi" khoản tiền lên đến 1 triệu đô la thời bấy giờ. Khoảng 5.000 đứa trẻ đã bị bắt cóc, 22 đứa trẻ được giám hộ vẫn còn "chịu" sự chăm sóc của Tann khi cô ta chết, chỉ có hai trẻ được trả về cho cha mẹ ruột, vì các gia đình nhận nuôi từ chối chúng. Hàng ngàn gia đình ruột thịt đã không bao giờ biết có chuyện gì xảy ra với con cái họ. Bằng ngòi bút độc đáo và lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và thực tại, Lisa Wingate đã thổi hồn vào Bí ẩn trong cô nhi viện, khiến tác phẩm trở thành một cuốn tiểu thuyết vô cùng xúc động và chân thực đến từng chi tiết. Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là truyện hư cấu liên quan đến đường dây buôn bán trẻ và nhân vật tai tiếng là Georgia Tann, tuy nhiên, ban đầu mình cảm tưởng sẽ có kịch tính và phơi bày mặt tối của cô nhi viện Tennessee hay ít nhất là đời sống bí mật của Georgia Tann theo góc nhìn của Rill, nhưng thay vào đó chỉ là hình ảnh hồi tưởng nỗi buồn da diết về Arcadia, đảo bùn, Camellia, và phân chương chẵn là của bà May và lẻ là của Avery. Ở góc độ nào đó Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của Lisa Wingate nhẹ nhàng, giảm tải góc tối của cô nhi viện Tennessee, đơn giản mọi thứ tình tiết – thẳng chừng mà nói tình tiết có phần nhanh – việc tàn bạo và đối xử tệ bạc là điều luôn hiện thực không thể phủ nhận được, nhưng trong Rill và đàn em bị bắt cóc là một tấn bi kịch xảy ra rồi. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, và là nỗi đau da diết khi rời xa gia đình trong thời thơ ấu, rồi chứng kiến mọi thứ diễn ra trong cô nhi viện có thể gây ra điều gì đó tệ hơn bao giờ hết.Bi kịch xảy ra Hình ảnh Rill cuối cùng trước khi rời nhà thuyền Arcadia là ông bố dẫn mẹ Queener rời đi cùng với Zede già, Rill và đàn nhóc ở lại cùng với Silas, ở một đêm tối nhà thuyền là đêm cuối cùng trước khi bị dời đi đến cô nhi viện là hình ảnh hoài niệm của Rill sau này, hình như đó cũng là dòng tâm tư của tác giả muốn độc giả nhớ lại trước khi bỏ sách xuống.Đó chỉ là giai đoạn khởi đầu của tâm bi kịch xảy ra, dù cho Rill và Fern đã quay trở lại nhà sàn Arcadia thì cũng không thể khiến cho Briny quay trở lại nhịp điệu trước đây nữa, mà khiến cho Rill càng quyết tâm rũ bỏ mọi thứ mà trở lại với cuộc sống làm con nuôi khác, thế nhưng Rill đã không còn hạnh phúc trong cuộc sống sau này bởi bà đã rũ bỏ Silas thì còn hạnh phúc gì đủ để bà hạnh phúc hơn khi ở bên mối tình đầu nhỏ nhoi ấy?Tuy nhiên Rill – thực ra mình thích tên Rill này hơn tên May, chỉ là bà đã quyết định bỏ lại tất cả mọi thứ có liên quan đến vương quốc Arcadia mà lấy tên May, đại diện cho bà hướng về tương lai, nhưng đến cuối đời bà lại hướng ngược lại dòng quá khứ, tức là bà không thể nào quên được vương quốc Arcadia có mặt đầy đủ mọi người ở đó  là Queenie, Briny, Camellia, Lark, Fern, Gabion, Silas và Zede già cùng phiêu lưu trên con sông – đã cưới ba đời chồng, thì cả ba người làm nghề khác nhau, một người làm giáo viên tượng trung cho suy nghĩ, một người làm nhà truyền giáo tượng trưng cho hiểu biết và người cuối cùng là dạy cho bà về tưởng tượng. Nhưng không một ai bằng Silas, một kiểu mối tình sâu đậm và có thể hạnh phúc trên dòng sông mãi mãi, nhưng bà lại không muốn vì sợ rằng sẽ lập lại như Briny, điên dại khi mất vợ, mất con, sống trong cái cảnh nghèo khó ấy luôn là tương lai tối mù. Giả sử bà vẫn chọn cách ở với Silas thì sao? Mọi tối tăm cùng quá khứ sẽ diễn ra, và bà mãi mãi không thể tìm được các em, mà thậm chí sống trong quá khứ mãi mãi.Tấm bi kịch xảy ra trong gia đình Rill là như vậy, có lẽ, tội nghiệp nhất là đứa bé Camellia, bướng bỉnh, ngoan cố y như ông bố Briny, và đứa em không thể tìm lại là Gabion, cùng với việc rời xa Silas, mà sau này chẳng thể nghe được tin tức gì về anh ta nữa, thật tình mà nói mình thấy xót thương cho Silas nhất, tính ra anh ta không có tương lai, lang bạc để kiếm sống và đối mặt với đám cớm. Thành thử, sau này Rill kể đã không biết tin tức gì về Silas càng làm lòng người ta vừa tò mò, vừa cảm thấy xót thương nhiều hơn.Văn phong trong truyện Văn phong Lisa Wingate mượn (nếu như mình đoán không nhầm vì đôi khi dịch giả chuyển ngữ đã mất đi phần văn phong của tác giả) theo kiểu nhẹ nhàng tối đa, và giảm tải bạo lực, mặt tối của cô nhi việc Tennessee không gây ấn tượng, ở phần nào đó chỉ nâng cao trải nghiệm cuộc sống của chị em Rill rồi được nhận nuôi cho đến khi nhận ra vương quốc Arcadia đã không còn nữa mà thôi. Do đó mình chỉ ấn tượng đến thế, về mặt nào đó ở góc tối, Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện chưa thật đủ gây ra ấn tượng nhiều hơn, chỉ ở khúc nào đó bị giam nhốt trong hầm tối là cùng lắm, hay việc Camellia biến mất chưa thật sự sáng tỏ và gây ra sự buồn bã nào đó với cái chết.Mình chỉ đánh giá cao về cuộc sống từ gia đình cho tới bị tách ra rồi đưa vào cô nhi viện, sau đó nhận nuôi, trốn thoát quay trở lại dòng sông để rồi phải quay trở về nhà ông bà nhận nuôi. Trong giai đoạn này hầu hết là giai đoạn tâm tư, nhớ nhung và thương xót, không gây ra kịch tính nào, hoặc chỉ đơn giản là phơi bày mặt tối thì không đạt, thậm chí tác giả Lisa Wingate chỉ ậm ừ viết cho nhanh cho qua giai đoạn mặt tối, nhất là giai đoạn về Rill khi trở về dòng sông, biết được Briny trở nên điên loạn vì mất Queenie, để rồi khi trời mưa, Briny cắt dây cho con thuyền đến giữa sống mặc kệ cho trời mưa xối xả dẫn đến có thể giết chết Rill và Fern. Mình thấy việc tác giả Lisa Wingate không miêu tả giỏi nội tâm nhân vật là Rill, từ đầu cho tới cuối, các bạn cũng sẽ đọc tới giai đoạn Rill nhớ nhung về bố mẹ ra sao, đau khổ khi thấy Briny ra sao, nhưng lại không hề sâu sắc và diễn tả buồn vui thế nào, Camellia đã mất, nhưng tác giả không hề nhắc tới, chỉ nhắc một lần duy nhất là Camellia thiệt mạng, về sau, không một từ ngữ tiếc thương nào về người em gái như thể nó đáng chết, và phải chết. Điều này mình cảm thấy nó có chút không được tự nhiên và tác giả miêu tả quá sơ sài – dĩ nhiên mình không chê văn phong của tác giả và trình độ, cái đáng tiếc là tác giả đã mong muốn kết thúc, càng về sau tác giả càng hụt hơi và nhanh chóng kết thúc truyện nhiều hơn là giải bày bí ẩn – hẳn nhiên sẽ có người cho rằng việc kết thúc nhanh chóng như vậy chỉ vì vương quốc Arcadia của Rill đã mất, sự thật đã phơi bày rằng Rill và Fern có quay trở lại thì không thể cứu vãn gia đình vốn dĩ đã sụp đổ trước khi cả năm đứa trẻ bị bắt cóc. Nhưng đối với mình thì việc phơi bày sự thật trần truồng như vậy còn nhẹ nhõng mà không hề gây ám ảnh sau này cho Rill về khoảnh khắc ông bố đứng trên mái nhà và chửi rủa, còn bình tĩnh như thể chuyện đó là hẳn nhiên, là cần thiết xảy ra không nên đau buồn. Đó là nỗi ám ảnh của đám trẻ bị tan vỡ gia đình cơ mà? Dù cho không bị ám ảnh thì đau buồn nó vẫn hiện diện như chuyện này đã xảy ngày hôm qua nhưng mình không hề thấy Lisa Wingate có miêu tả một sự đau đớn nào cho từng nhân vật mà chỉ đơn giản là khoảnh khắc hiện diện trước mặt là chuyện buồn rồi sẽ nhanh chóng qua trên khuôn mặt của May.Tuy nhiên mình không chê truyện Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là dở, cái dở ở trong  truyện chỉ vài điều và nó không nói lên rằng truyện không hay, có những khoảnh khắc mà Rill cùng Fern trốn khỏi gia đình nhận nuôi trở về Arcadia là khoảnh khắc chúng ta nhận ra rằng vương quốc Arcadia ấy đã không còn, đã biến mất hoàn toàn kể từ khi các chị em bị bắt đi và mẹ Queenie mất đi là lúc tâm trí của bố Briny đã biến mất, chẳng thiết tha sự sống của mình và của hai đứa con.Tóm lạiBí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là câu chuyện trong thời kỳ nạn buôn bán trẻ em, tuy nhiên chưa thật sự lột tả được sự tối tăm của con người Georgia Tann và cô nhi viện của bà ta như thế nào, chủ yếu tác giả tập trung vào Avery con của chính trị gia, khám phá ra lịch sử của gia đình mình để rồi biết được lịch sử bà nội mình, đằng sau câu chuyện nhận nuôi. Nhưng không thể lột tả trần trụi sự thật tối tăm vốn dĩ bản chất của việc này chẳng mấy sáng sủa hay ho gì, tuy nhiên, mình cảm thấy Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện là chưa đủ nói lên sự bí ẩn lớn lao nào như tựa đề mang lại nên chưa thật sự hài lòng về việc tác giả đã đặt tên như vậy.Tuy nhiên, ngoài các chi tiết ấy thì mọi thứ điều ổn thỏa, nhẹ nhàng và đem lại ấn tượng về một gia đình tan nát, Rill bị bắt cóc cho đến quay trở về vương quốc Arcadia thì nhận ra sự thật rằng gia đình của Rill đã mất hoàn toàn, và rồi phải tự quyết định rũ bỏ vương quốc; nơi mà mình đã từng là công chúa, ra đi cùng với gia đình mới. Một ý nghĩa truyền tải đơn giản là gia đình của Arney, nếu như một đứa trẻ sống trong một gia đình đối xử bạo hành, có nghĩa bạn nên rời khỏi nơi đó, hoặc cứ như Rill đón nhận gia đình nuôi sau khi gia đình cũ bị tan nát, chấp nhận sự thật này rồi tương lai sẽ đón nhận điều mới của chúng ta. *** Dành tặng hàng trăm người đã biến mất và hàng ngàn người vẫn còn tồn tại. Cầu mong câu chuyện của các bạn sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đồng thời dành tặng cho những ai từng giúp đỡ trẻ mồ côi ngày nay tìm được mái ấm vĩnh viễn. Chúc các bạn luôn hiểu rõ giá trị công việc và tình yêu của mình. "Bạn có biết rằng, ở tại vùng đất của sự tự do và ngôi nhà của lòng quả cảm này, có một thị trường buôn bán trẻ em cực lớn? Và cổ phần sang tay... không chỉ đơn thuần là những tờ giấy hứa hẹn số cổ tức tài chính nào đó, mà là những đứa bé bằng xương bằng thịt vẫn đang quẫy đạp đầy sinh khí." Trích bài Thị trường buôn trẻ em Thời báo Tối Thứ Bảy, số ngày 1 tháng 2 năm 1930 "Georgia Tann nhiều lần nói rằng trẻ em như tấm bảng trắng. Chúng được sinh ra không chút tì vết, và nếu bạn nhận nuôi chúng từ lúc nhỏ, cho chúng tiếp cận điều hay và nền giáo dục tốt, chúng sẽ trở thành con người như bạn mong muốn." Barbara Bisanta Raymond Tên trộm trẻ thơ *** Baltimore, Maryland Ngày 3 tháng 8 năm 1939 Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một đêm tháng Tám oi ả, tại nơi tôi sẽ chẳng đời nào để mắt tới. Căn phòng tước đoạt sinh mạng ấy chỉ nằm trong trí tưởng tượng của tôi. Mất nhiều ngày tôi mới gợi nhớ được hình ảnh về nó. Bốn bức tường trắng tinh sạch sẽ, tấm vải lanh trải giường cứng đờ như chiếc lá rơi xuống vệ đường. Dãy phòng riêng được trang bị mọi thứ tốt nhất. Bên ngoài, làn gió thổi nhẹ uể oải và ve sầu kêu rộn rã trên cây cao, nơi ẩn nấp xanh tươi của chúng nằm ngay dưới khung cửa sổ. Chiếc quạt trần kêu lạch cạch trên đỉnh đầu thổi tấm màn lưới tạt vào trong, lôi kéo luồng không khí ẩm ướt chẳng buồn cựa quậy. Mùi gỗ thông thoảng nhẹ vào phòng, và tiếng gào thét thật to của một người phụ nữ vang lên khi y tá giữ chặt cô ta trên giường. Mồ hôi đầm đìa, tuôn xối xả xuống mặt và tay chân cô ta. Nếu tỉnh giấc trong tình cảnh này, cô ta sẽ sợ chết khiếp cho xem. Cô ta rất xinh. Một linh hồn dịu dàng mỏng manh. Không phải kiểu người sẽ cố tình gây ra tình huống thảm khốc này. Trong cuộc sống ngần ấy năm muôn màu muôn vẻ, tôi đã nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cố hết sức để tự mình xoay xở. Họ không hề có ý định tổn hại bất cứ ai. Chẳng qua đó chỉ là hậu quả phụ khủng khiếp của nỗ lực để tồn tại mà thôi. Đó không phải là lỗi của cô ta, tất cả chỉ là một giọt nước tràn ly, một cú đẩy cuối cùng tàn nhẫn, không chút thương xót. Cô ta tạo ra điều cuối cùng mà bản thân mong muốn. Một sinh linh thinh lặng chào đời - bé gái nhỏ xíu có mái tóc vàng nhạt, đẹp như búp bê, nhưng lại xanh xao và im lìm. Người phụ nữ ấy sẽ không thể nào biết được số phận của con mình, hoặc giả nếu như cô ta có biết thì thuốc men cũng sẽ làm cho ký ức ấy nhạt nhòa cho tới hôm sau. Cô ta ngừng quẫy đập và đầu hàng tình trạng nửa tình nửa mê, được ru ngủ nhờ những liều moócphin và thuốc gây mê giúp cô ta đánh bại cơn đau. Cũng như giải thoát cô ta khỏi mọi thứ. Một cuộc trò chuyện đầy cảm thông diễn ra trong lúc các bác sĩ khâu vết thương và y tá dọn dẹp những thứ còn sót lại. "Thật đáng buồn khi chuyện lại xảy ra như thế. Một mạng sống thậm chí còn chưa được một lần hít thở trên cõi đời này." "Đôi khi chúng ta phải tự hỏi... tại sao... khi người ta khao khát một đứa trẻ thì..." Tấm khăn liệm được hạ xuống, che đi đôi mắt nhỏ xíu. Đôi mắt ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy gì. Người phụ nữ kia vẫn nghe được nhưng chẳng thể nắm bắt ý. Mọi âm thanh cứ lọt vào tầm nghe rồi tan biến. Như thể cô ta đang cố bắt lấy đợt thủy triều, nhưng nước lại chảy hết qua kẽ bàn tay nắm chặt, và cuối cùng cô ta đành thả mình trôi theo dòng nước. Một người đàn ông đang đợi gần đó, có lẽ là ở trong hành lang ngay bên ngoài cửa. Trông ông ta oai vệ, cao quý và không quen rơi vào tình huống bất lực như thế. Đáng lý hôm nay sẽ là ngày ông ta trở thành ông ngoại. Cảm giác mong chờ tuyệt diệu đã tiêu tan thành nỗi đau quặn thắt ruột gan. "Thưa ngài, tôi thực sự xin lỗi." Bác sĩ nói ngay khi vừa rời khỏi phòng. "Chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi đã cố gắng hết sức làm dịu cơn đau lâm bồn của con gái ngài và cứu lấy đứa trẻ. Tôi hiểu chuyện này rất khó khăn. Xin gửi lời chia buồn sâu sắc đến cha đứa trẻ khi nào ngài liên lạc được với anh ấy ở nước ngoài. Sau khi chịu nhiều nỗi thất vọng, gia đình ngài chắc đã nuôi niềm hy vọng lớn lao như vậy." "Con bé còn khả năng sinh nở nữa chứ?" "Đó là điều không nên đâu." "Đây sẽ là dấu chấm hết cho con bé. Và cả mẹ nó nữa, một khi bà ấy biết được việc này. Ông biết đấy, Christine là đứa con duy nhất của chúng tôi. Một đứa trẻ sắp sửa chào đời... sự khởi đầu của một thế hệ mới..." "Tôi hiểu, thưa ngài." "Con bé sẽ gặp rủi ro gì nếu như..." "Mạo hiểm tới mạng sống. Và rất khó có khả năng là con gái ngài sẽ mang thai lần nữa. Nếu cô ấy cố thử thêm, kết quả có thể..." "Tôi hiểu rồi." Vị bác sĩ đưa một tay lên an ủi người đàn ông đang đau khổ ấy, hay có lẽ điều đó chỉ xảy ra trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi. Và mắt họ cứ thế giao nhau. Rồi vị bác sĩ ngoái ra sau để đảm bảo là các y tá không thể nghe thấy. "Thưa ngài, tôi có thể đề nghị một chuyện này được chứ?" Ông ta khẽ nói với vẻ nghiêm trang. "Tôi biết một người phụ nữ sống ở Memphis..." Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Trong Cô Nhi Viện của tác giả Lisa Wingate & Mokona (dịch).
2666 (Tiểu Thuyết)
2666 là tiểu thuyết cuối cùng của Roberto Bolaño. Cuốn sách được xuất bản năm 2004, một năm sau khi Bolaño qua đời. Chủ đề của nó vô cùng phong phú, xoay quanh một nhà văn người Đức bí ẩn và những vụ giết người vẫn không ngừng diễn ra ở Santa Teresa, một thành phố bạo lực mà nguyên mẫu đời thực là Ciudad Juárez và những vụ giết hại phụ nữ xảy ra ở đó.  Bên cạnh Santa Teresa, bối cảnh và chủ đề của tiểu thuyết còn có cả Mặt trận phía Đông trong Thế Chiến thứ Hai, thế giới học thuật, bệnh lý tâm thần, báo chí, tình bạn tan vỡ, sự nghiệp tiêu tán. 2666 khám phá sự suy thoái của thế kỷ 20 qua một loạt các nhân vật, địa điểm, giai đoạn và những câu chuyện nằm trong câu chuyện. Giới phê bình nhìn chung đánh giá cuốn sách hết sức tích cực. Ở Chile, nó thắng giải Altazor Award vào năm 2005. The New York Times Book Review đưa cuốn sách vào danh sách Mười cuốn sách hay nhất năm 2008; Tạp chí Time xem 2666 là Sách Hư Cấu Hay nhất Năm 2008; tiểu thuyết cũng thắng giải National Book Critics Circle Award for Fiction năm 2008. Các nhà phê bình so sánh 2666 với các tác phẩm của W. G. Sebald và ca ngợi tầm vóc và những tuyến truyện đan cài trong cuốn sách. Hiếm có cuốn tiểu thuyết nào mà từ khi đang còn trên bàn biên tập đã được một bộ phận độc giả văn chương “sành sỏi” háo hức mong đợi như vậy. Nếu Roberto Bolaño không mất sớm vào năm 2003 khi mới năm mươi tuổi, chắc hẳn ông sẽ là một trong những ứng viên nặng ký cho giải Nobel Văn chương.  TÓM TẮT:  Bốn người châu Âu nghiên cứu văn chương. Một giáo sư đại học ở Mexico. Một nhà báo Mỹ đưa tin về một trận quyền Anh. Một nhà văn Đức kiệt xuất, ẩn dật, từng là lính quốc xã. Cảnh sát, nhiều cảnh sát. Gái điếm. Và nhiều, rất nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi, đọc kỹ, ta sẽ thấy rằng tất cả các chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, thảy đều xoay quanh một lỗ đen khổng lồ, hắc ám: Santa Teresa. Thành phố bên rìa sa mạc phía bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. Nhất là nếu bạn là phụ nữ. Phức tạp như bản thân thế giới, cuốn sách là cả một vũ trụ đủ màu hỉ nộ ái ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen.  *** TÁC GIẢ: Roberto Bolaño (1953-2003) nhà văn kiệt xuất người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolaño là “tiếng nói văn chương Mỹ la-tinh quan trọng nhất trong thế hệ của ông”. *** '2666' và câu chuyện xảy ra ở thành phố có 108 xác chết Cuốn sách "2666" của Roberto Bolaño là một vũ trụ đủ triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ và cả tội ác. 2666 là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn người Mỹ Latin Roberto Bolaño, được xuất bản một năm sau khi ông qua đời vì căn bệnh suy gan khi 50 tuổi.  2666 không chỉ là kiệt tác cuối đời của một tiểu thuyết gia, mà còn là kiệt tác đến từ "tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông". Một kiệt tác đồ sộ  Cuốn sách xoay quanh rất nhiều nhân vật, nhưng tất cả chỉ đều dẫn đến Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc ở bắc Mexico, giáp biên giới Mỹ.  Ở đó có người châu Âu nghiên cứu văn chương, một giáo sư đại học, một nhà báo Mỹ, một nhà văn Đức kiệt xuất nhưng sống ẩn dật. Rất nhiều cảnh sát, gái điếm và những nhân vật tưởng chừng chẳng có can hệ gì đến nhau.  Những vụ giết người cứ xảy ra hàng ngày trong cái thành phố đầy sức sống và cũng nhiều hiểm họa ấy. Trong cuốn sách, từ năm 1990 đến 1997, 108 xác chết đều là phụ nữ và các bé gái.  Xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm là một vũ trụ đủ màu hỉ, nộ, ái, ố, đủ mùi triết lý, nực cười, lãng mạn, tục tằn, ngây thơ đến độ đui mù, ngoan ngoãn xoay quanh địa ngục lỗ đen và răm rắp tuân theo lệnh của lỗ đen. Ngay từ khi ra mắt, cuốn sách đã được giới phê bình đón nhận tích cực và dành tặng nhiều lời khen ngợi. Tác phẩm chiến thắng giải "Altazor Award" năm 2005 tại Chile và khi được dịch sang tiếng Anh năm 2008 cũng chiến thắng luôn giải "National Book Critics Circle Award for Fiction" của Mỹ.  Tờ New York Times xếp cuốn sách là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2008, trong khi tạp chí TIME cũng vinh danh 2666 là tiểu thuyết hư cấu hay nhất cũng trong năm đó.  Tựa đề cuốn sách là một điều bí ẩn, đến nay chưa ai giải đáp được. Con số 2666 không xuất hiện dù chỉ một lần trong suốt tác phẩm và Bolaño cũng chưa từng lên tiếng giải thích ý nghĩa của nó.  Tuy vậy, 2666 đã xuất hiện trong một vài các tác phẩm khác của Bolaño, có thể kể đến Amulet ('một nghĩa trang vào năm 2666) và The Savage Detectives ('khoảng năm 2600 gì đó').  Trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha, tác phẩm 2666 dày hơn 1.100 trang. Sau khi chuyển ngữ, bản sách tiếng Việt có độ dày gần 900 trang, kết cấu 5 phần rõ ràng.  Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về 2666, câu chuyện đằng sau cuốn sách, cũng như khi so sánh với các tác phẩm khác, công ty sách Nhã Nam tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến "Nhìn thế giới từ phương Tây: Tiểu thuyết của Murakami và Bolano ở Việt Nam" vào tháng 5 vừa qua.  "Đừng bó buộc nhà văn trong định danh quốc tịch của họ" Ngay từ phần mở đầu của buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khẳng định ông không phải là nhà nghiên cứu Roberto Bolaño. Ông chỉ đơn giản là người đọc Bolaño sớm hơn so với độc giả Việt Nam.  Ông cũng là người gợi ý hai cuốn sách hay nhất của Bolaño để phía đơn vị xuất bản đem tác phẩm về với độc giả Việt, một trong hai tác phẩm đó là 2666.  Thực chất, cách đây 12 năm, Bolaño đã xuất hiện tại văn đàn Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Đêm Chile nhưng chưa được chú ý nhiều. Đến năm 2020, khi tác phẩm 2666 được xuất bản, công chúng mới nghiêm túc nhìn nhận văn chương và tài năng của ông.  Trần Tiễn Cao Đăng biết đến Bolaño lần đầu năm 2007 với cuốn The Savage Detectives (tạm dịch: Trinh thám hoang dại) qua người bạn. Điều đáng nói là khi ấy cuốn sách 2666 vẫn chưa được dịch ra tiếng Anh. Phải khi sách được xuất bản tại Mỹ năm 2008, tên tuổi của Bolaño mới gây được tiếng vang lớn trên thế giới.  Tương truyền khi 2666 ra mắt tại thành phố New York, Mỹ, có hiệu sách còn bố trí riêng một người để lấy sách cho độc giả, bởi số người muốn mua cuốn sách của Bolaño rất lớn. Sức hút cũng không kém gì Haruki Murakami khi mới xuất hiện tại cộng đồng Anh ngữ. Một điều thú vị khi nhắc đến Bolaño, Murakami hay bất kỳ nhà văn nào khác, Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng bó buộc họ trong định danh quốc tịch của chính họ như Chile hay Nhật Bản…, mà đơn giản hãy gọi họ là nhà văn.  Ví dụ, các tác phẩm của Murakami, khi loại bỏ hết tên riêng tiếng Nhật và thay bằng những cái tên trong bất cứ ngôn ngữ nào khác, câu chuyện vẫn không thay đổi. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhà văn vốn chẳng phải đến từ phương Tây, từ khu vực Âu - Mỹ, nhưng vẫn được yêu thích trên toàn thế giới, là tính hiện thực.  Ở Bolaño, tính hiện thực xuyên suốt trong từng trang sách. Ngay chính ở 2666, độc giả cũng có thể thấy rõ điều đó, như ở phần 4 của cuốn sách là chương mà các tội ác dày đặc, ta bị đông cứng người lại vì có quá nhiều việc ác hiển hiện đến như vậy.  Còn Murakami lại là những thế giới siêu thực, song song với nhiều yếu tố kỳ ảo. Hầu như các tác phẩm của Murakami đều có yếu tố phi thực như vậy, như trong Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Cuộc săn cừu hoang… Các nhân vật của Bolaño và Murakami cũng trái ngược nhau. Bolaño luôn coi mình trước hết với vai trò nhà thơ, mặc dù thành công vang dội trong mảng văn chương. Vì thế, trong hầu hết sách của ông, nhân vật nhà thơ luôn xuất hiện, hiện thân cho cái tôi của chính ông.  Trong Trinh thám hoang dại, toàn bộ câu chuyện xoay quanh các nhà thơ và số phận của họ. Họ hướng tới cái đẹp mà chỉ có mình họ quan tâm đến.  Họ đi bán thuốc phiện để được làm thơ. Nhưng xã hội hiện đại không quan tâm đến họ, biến họ thành kẻ lạc loài. Trong 2666, tuýp nhân vật này lại xuất hiện, đó là anh nhà thơ trong nhà thương điên.  Còn với Murakami, các nhân vật chính lại chưa bao giờ là nhà thơ hay nghệ sĩ. Họ chỉ là những người bình thường, sống độc thân hoặc cô đơn, thường thích nấu ăn và thích nghe nhạc jazz.  Có thể nói hai nhà văn lớn được nhắc đến thuộc hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng cùng được xem là hai trong những tiểu thuyết gia quan trọng nhất của thời hiện đại. Với gần 900 trang, cuốn sách 2666 có sự tham gia của hai dịch giả giàu kinh nghiệm là Quân Khuê và Trần Tiễn Cao Đăng. Theo chia sẻ từ đại diện đơn vị xuất bản, cuốn sách cũng được gia hạn bản quyền đến hai lần, không chỉ bởi độ dày, mà còn bởi sự chỉn chu, cầu toàn của người dịch, biên tập viên với một kiệt tác văn chương.  Kết thúc buổi tọa đàm, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng khuyên độc giả đừng nản lòng trước sự đồ sộ của 2666. Văn chương của Bolaño được đánh giá tương đối dễ đọc, dễ hiểu. Ông cũng không phải là người thích chơi chữ nhưng lại có biệt tài kể chuyện cuốn hút. Độc giả hãy cứ kiên nhẫn, hãy cứ thoải mái tận hưởng cuốn sách từng chút một, và sẽ tìm thấy sự hài lòng khi gấp trang cuối cùng lại. *** "2666" tiểu thuyết hay nhất do tạp chí Time bình chọn có mặt tại Việt Nam Do nhà văn Roberto Bolano (Chile) chấp bút, cuốn tiểu thuyết "2666" đã lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất 2018 do The New York Times Book Review bình chọn, Tiểu thuyết hay nhất 2018 do tạp chí Time bình chọn. Và với những nỗ lực của công ty Nhã Nam, cuốn sách đã có mặt tại thị trường sách Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết có bố cục gồm 5 phần và trọn vẹn như năm tiểu thuyết riêng biệt. Nhiều câu chuyện riêng tư thoạt nhìn chẳng liên quan đến nhau. Nhưng rồi đọc kỹ, độc giả sẽ thấy, tất cả các câu chuyện đó, giống như những thế giới rất khác nhau, chồng lớp lên nhau, và xoay quanh Santa Teresa, thành phố bên rìa sa mạc phía Bắc Mexico, giáp giới nước Mỹ. Một thành phố lớn, đầy sức sống. Một thành phố lớn, nơi hiểm họa xảy ra bất cứ lúc nào. 2666 là một màn trình diễn hoàn hảo mà bất cứ cuốn tiểu thuyết 900 trang nào cũng mong muốn có được. Viết nương theo những hoài nghi về khả năng của văn chương, về những gì văn chương có thể khám phá hay dám gọi tên những tai ách của thế gian, nhà văn Bolano đã chiến thắng cuộc đua tới vạch đích, cuộc đua viết ra điều ông, một bậc thầy ngôn từ mong muốn nói lên một cách giản dị. Roberto Bolano (1953 – 2003) là nhà văn người Chile, tác giả nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tiểu luận văn chương. Năm 1999 ông đoạt giải thưởng Rómulo Gallegos cho tiểu thuyết Los detectives salvajes (tạm dịch: Trinh thám hoang dại), và năm 2008 ông được truy tặng Giải thưởng Hội Phê bình sách Toàn quốc (National Book Critics Circle Award) của Hoa Kỳ cho tiểu thuyết 2666. Marcela Valdes, một thành viên của ban chấm giải, mô tả 2666 là “một cuốn sách phong phú và chói sáng đến độ chắc chắn sẽ thu hút người đọc và giới học giả suốt nhiều đời sau.” Thời báo New York gọi Bolano là “tiếng nói văn chương Mỹ Latin quan trọng nhất trong thế hệ của ông”.   Mời các bạn đón đọc 2666 (Tiểu Thuyết) của tác giả  Roberto Bolaño & Trần Tiễn Cao Đăng (dịch) & Quân Khuê (dịch).

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6