Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Pháp y Tần Minh Hệ Liệt - Tần Minh
Gồm một chuỗi những vụ điều tra phá án với những vụ án lạ kỳ, bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh được biên soạn dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ pháp y nổi tiếng Tần Minh. Trong bộ sách, tác giả hóa thân thành nhân vật chính lần mò từng dấu vết để tìm kiếm sự thật đang bị kẻ xấu che đậy. Ở Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám được xuất bản nhiều, tuy nhiên liên quan đến nghề pháp y thì đây là tác phẩm lần đầu được ra mắt. Với kết cấu logic phù hợp với thực tiễn, bộ sách đã khắc họa rõ nét những gian khổ vất vả tình yêu mà tác giả dành cho nghề nghiệp mình theo đuổi. Được duy trì bởi phong cách nhất quán, từng vụ án riêng rẽ được kết nối với trục chính xuyên suốt cùng hành văn mạch lạc, mục đích chính của Pháp y Tần Minh là phổ biến kiến thức tới độc giả, hướng tới tinh thần khoa học chân chính. Với câu nói thách thức: "Muốn cho người không biết, trừ phi mình đừng làm", tác giả cũng chính là nhân vật chính trong tác phẩm khẳng khái đối đầu với bọn tội phạm đang lẩn khuất trong bóng tối. Tinh thần nêu cao chính nghĩa, truy tìm đến cùng sự thật chính là một trong những điều nổi bật tạo nên sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết trinh thám này. Bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh gồm có: + Quyển 1: Người giải mã tử thi + Quyển 2: Lời khai câm lặng + Quyển 3: Ngón tay thứ mười một + Quyển 4: Kẻ dọn rác + Quyển 5: Người sống sót *** Đối với sinh viên ngành Pháp y, năm thứ hai và năm thứ ba chính là ác mộng. Bởi vì sinh viên y khoa thông thường học bốn năm lý thuyết y học, riêng sinh viên pháp y phải học xong trong ba năm. Tuy rằng tôi rất chăm chỉ học tập, thế nhưng khi học năm thứ hai, những môn sinh lý, sinh hóa, bệnh lý, bệnh sinh, ký sinh trùng cùng dung dăng dung dẻ nhào đến, tôi không thể chống đỡ hết được. Cuối cùng hai môn sinh hóa và ký sinh trùng đều ở mức báo động đỏ. Vì vậy, nghỉ hè năm thứ hai đại học, tôi phải ở nhà ôn tập, không thể tham dự thực tập được. Đến tận đợt nghỉ hè năm thứ ba, tôi mới lại được tới phòng khám pháp y như trước. Nơi các bác sĩ pháp y công tác không hoành tráng như trong tưởng tượng. Trừ khi anh muốn xung phong đi điều tra án mạng, còn nếu không thì bao nhiêu tinh lực đều phải dồn cả vào việc giám định thương tật, mà làm mãi cũng không hết việc. Ở đây thỉnh thoảng sẽ xuất hiện những vụ (việc) án mạng không bình thường. Sở dĩ gọi là “vụ (việc) án không bình thường” là bởi pháp y đối với loại vụ án thế này phải hoàn thành kết luận sơ bộ trước, rồi mới đi vào khám nghiệm chuyên sâu sau. Trước hết, kết hợp kết quả điều tra cùng kết quả khám nghiệm hiện trường, phải xác định được đó có phải án mạng hay không. Nếu là án mạng thì sẽ gọi là “vụ án” , cần làm thêm giải phẫu tử thi đế kiểm nghiệm và tham dự vào điều tra phá án. Nếu xác định không phải án mạng thì gọi là “vụ việc” , thi thể giao lại cho người nhà xử lý. Nếu nhầm “vụ việc” thành “vụ án” sẽ lãng phí công sức và nhân lực điều tra, công tác điều tra sẽ bị đình trệ, lại phải tìm ra điểm sai lầm trong kết luận của mình, bác sĩ pháp y sẽ bị muôn ngàn lời chỉ trích. Mà nếu đem “vụ án” nhầm thành “vụ việc” thì ngay lập tức tạo thành án oan. Mỗi năm cả tỉnh có tới hơn mười nghìn vụ (việc) án không bình thường, mỗi vụ đều cần hai bác sĩ pháp y xử lý. Tính ra mỗi bác sĩ pháp y phải thực hiện hơn bảy mươi vụ. Đương nhiên không kể đến những vụ giám định tai nạn giao thông. Ngày đầu tiên trở lại với phòng khám pháp y của tôi không yên bình chút nào. Tôi vừa bước chân qua cửa chưa đến năm phút đồng hồ, điện thoại đã vang lên. Đó là cuộc gọi của đồn công an, “Khu tập thể Tân Lục có một vụ tử vong tại nhà riêng, là đột tử giữa đêm khuya, mời các vị đến xem xét.” “Điều tra sơ bộ có nghi vấn gì không?” Anh Thánh Binh hỏi. “Không có nghi vấn gì, hiện trường đã được phong tóa, có lẽ chỉ là đột tử bình thường thôi.” Anh cảnh sát dân sự nói qua loa, rõ ràng là đối với những vụ việc tử vong không bình thường thế này cũng không coi trọng mấy. Khu tập thể vốn ở ngay gần phòng khám pháp y, vì vậy chúng tôi đã nhanh chóng chạy tới hiện trường. ... Mời các bạn dón đọc Pháp y Tần Minh Hệ Liệt của tác giả Tần Minh.
Ổ Buôn Người - Giản Tư Hải
 "Ổ buôn người” viết về đề tài bắt cóc và buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia - một vấn nạn nhức nhối và gây nhiều bức xúc trong xã hội hiện nay. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Hà Phan - một công dân bình thường nhưng đã không thể nhắm mắt làm ngơ trước những kẻ phạm tội, đặc biệt là khi chúng vươn tay tới cả người mà anh yêu thương. Nhờ sự khôn khéo, trí thông minh và cả sự liều lĩnh, anh đã tạo dựng được lòng tin của chính thủ lĩnh tội phạm và nhờ vậy đã cứu thoát không ít những cô gái Việt Nam bị bán sang Trung Quốc. Song cũng chính vì thế mà anh lọt vào tầm ngắm của Interpol và bị coi như một tên tội phạm nguy hiểm. Những tình tiết gay cấn, những cuộc đấu trí giữa Hà Phan với cảnh sát đặc nhiệm hay cuộc giải thoát cho Hà Vi - cô gái anh thầm thương nhớ - khỏi kẻ buôn người khét tiếng tên Ma với những màn võ thuật hay đấu súng đỉnh cao là những điểm hấp dẫn ở cuốn sách trinh thám này. *** 45 phút sau có tiếng xe rầm rầm ngoài sân. Chiếc Land Cruiser màu đen nhẹ nhàng đỗ xịch trước cửa. Người lái xe bước xuống xuất trình giấy tờ cho hai lính gác. Hai tên lính lạnh lùng hất hàm mệnh lệnh Han lên chiếc xe màu đen đang chờ. Chết tiệt, chúng bắt mình đi đâu nhỉ? Họ đưa xe xịn để đón một tên bị truy nã sao. Mặc dù sợ phải về Đồn 35 nhưng nay hắn không còn đường lùi. Nhìn hai tên lính gác ngồi hai bên tuy có khoảng cánh nhưng hắn cứ như bị ép đến ngạt thở. Sau một giờ trên con đường quốc lộ 1A, chiếc xe chở hắn ngược lại Hà Nội. Đường Điện Biên Phủ hiện ra với những hàng cây cao xanh ngát. Bị dẫn lên tầng trên rồi vào căn phòng lớn có đề chữ Giám Đốc bên trên. Han bủn rủn chân tay. Như nhìn xuyên qua cánh cửa, một người đàn ông cao lớn trong bộ quần áo cảnh sát đặc nhiệm có cặp mắt vàng đục tiến ra. Hắn như chết đứng trước căn phòng, người đó là Trần Phách. Chính con người đáng sợ này đêm qua đã bắn hụt hắn trên cầu. - Ông Han! – Tưởng ông đã về Poshan sáng nay rồi cơ đấy. - Tôi... tôi phải gặp các ông đã... - Vậy hả, sao không làm việc đó từ hôm qua? Vào đi! Hai lính gác hộ tống Han đến chiếc ghế sa-lon trong phòng khách của vị đại úy rồi ông ta phẩy tay để họ ra ngoài. Lúc này một mình Han ngồi đối diện với con người được giới giang hồ trong nước phong làm hung thần số một. - Tôi giao cho ông một tài liệu hết sức quan trọng. Tôi đã săn lùng rồi ghi âm hắn trong suốt một tháng trời. Cũng vì nó mà tôi suýt bỏ mạng không dưới ba lần đây. Mọi thứ sẽ sáng tỏ. - Han tự tin móc túi đưa chiếc USB màu sáng cho người chỉ huy. Trần Phách dường như không quan tâm đến lời anh ta tuy vẫn đưa tay đón lấy chiếc USB rồi thả xuống bàn một cách hờ hững. ... Mời các bạn đón đọc Ổ Buôn Người của tác giả Giản Tư Hải.
Đắm Đuối - Carter Brown
Một cái xác bị đánh cắp tại nhà xác ngay trong đêm. Trung úy Wheeler được cử đến hiện trường và chứng cứ thu thập được đã giúp anh tìm lại được tử thi đã mất nhưng kèm theo đó lại là một cái xác mới khác. Wheeler trong quá trình điều tra luôn nhận được những tin tức bí mật từ một người lạ mặt và anh đã phải trải qua những ngày dài căng thẳng, mệt nhọc. Cuối cùng, qua từng bước điều tra khôn ngoan và hiệu quả của Wheeler, kẻ sát nhân đã phải lộ mặt và nhận lấy sự trừng phạt thích đáng… *** Carter Brown là bút danh văn học của Alan Geoffrey Yates (1 tháng 8 năm 1923 - 5 tháng 5 năm 1985), một nhà văn người Anh chuyên tiểu thuyết trinh thám. Sinh ra tại Anh, Alan Yates kết hôn và định cư tại Úc vào năm 1948. Anh bắt đầu cuộc sống làm việc của mình như là một kỹ thuật viên điện ảnh, nhân viên bán hàng và trong quan hệ công chúng cho Qantas trước khi viết lên toàn thời gian. Yates nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ông đã viết các phương Tây dưới bút danh Todd Conway, và khoa học viễn tưởng dưới thời Paul Valdez. Ông thậm chí còn tìm được thời gian để viết sách theo các phiên bản khác nhau của tên riêng của mình cũng như các bút danh khác, Dennis Sinclair và Sinclair MacKellar. Nhưng Peter Carter Brown, sau đó là Peter Carter Brown, sau đó là Carter Brown, và trở thành tác giả các tiểu thuyết bán chạy nhất thế giới. Tại Việt Nam, Ông được biết đến với series về Trung úy Wheeler. Một số tác phẩm của Carter Brown đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Xác Chết Vũng Lầy Đắm Đuối *** *** Nhấn hết ga, tôi cho chiếc xe lái với tốc độ một trăm ba mươi cây số giờ trên con đường đất, lòng thầm vái rằng mình sẽ không bị sụp ổ gà và chết tan xác. Sau khi vượt qua khúc quanh gần đoạn cuối, tôi cho xe chậm lại ở vận tốc bảy mươi cây số giờ và khi tôi rẽ vào hoang địa. Tôi thắng gấp và chiếc Austin Healey dừng lại giữa chiếc du lịch màu nâu và chiếc Cadillac xanh. Cả hai hai đều vắng bóng người. Khi tắt máy xe, tôi mới thấy rằng mình đang chìm trong bầu không khí tĩnh mịch, đầy đe dọa. Tôi ngồi đó một lúc, lắng tai nghe ngóng nhưng không biết rõ là mình đang chờ đợi điều gì: tiếng súng nổ, tiếng đạn ráo cày xới những vách đá sừng sững, hay là - để mặc cho trí tưởng tượng vẽ vời - tôi chờ nghe tiếng hổn hển của hai tên khổng lồ đang sống mái trên mỏm đá sừng sững bên trên tôi sáu mươi thước… Nhưng có điều là tôi không hề chờ đợi sự yên ổn! Tôi đóng ầm cửa xe và tiếng động này vang vào vực núi như tiếng sấm gầm. Tôi châm điếu thuốc và bước ra trước xe để quan sát cảnh vật. “Ô kìa Wheeler!” một giọng nói thốt lên từ phía sau tôi. Tôi giật thót người, tưởng chừng cả tấm thân có thể bay bổng lên cả thước. Quay phắt lại, tôi thấy Blake đang ngồi nơi ngăn trước của chiếc du lịch, khuôn mặt hơi khuất dưới cái mũ phớt rộng vành. Y mặc một chiếc sơ mi hở cổ màu ô liu và chiếc quần nhung sọc nhét kỹ vào đôi ủng bóng loáng. Cái khăn quàng cổ màu trắng buộc hờ hững như muốn làm nổi bật hơn làn da rám náng của y. Trên cặp đùi của y là khẩu Winchester calíp 458 tuyệt đẹp với ống ngắm lấp lánh dưới nắng trời. ... Mời các bạn đón đọc Đắm đuối của tác giả Carter Brown.
Bàn Tay Cứu Mạng - Chris Cleave
Trong cuộc chạy trốn bọn giết người hòng truy sát những nhân chứng tội nghiệp của một ngôi làng Nigeria (châu Phi) hiền lành bị san phẳng chỉ vì một nguyên do là nó nằm trên một mỏ dầu, hai chị em Ong Nhỏ - Lòng Tốt đã trốn đến một bãi biển ở Đông Nam Nigeria. Ở đó, hai chị em đã gặp hai vợ chồng nhà báo Anh đi nghỉ mát hòng hàn gắn cuộc hôn nhân đã nguội lạnh của họ. Chưa kịp bày tỏ hết mối hiểm nguy đang rình rập hai chị em, bọn giết người đã đuổi đến, và tên cầm đầu đã ra một điều kiện bất ngờ: nếu người đàn ông da trắng kia chịu chặt một ngón tay thì Ong Nhỏ và Lòng Tốt sẽ được tha mạng. Quá bất ngờ với điều kiện lạ lùng đó, lại không tin vào lời đảm bảo của tên cầm đầu đám sát nhân, người chồng đã từ chối... Và kể từ sau phút giây định mệnh khủng khiếp đó, cuộc đời của Ong Nhỏ và hai vợ chồng nhà báo người Anh đã không còn như trước... *** — “Dù trăng biến mất bao lâu/Một mai trăng lại sáng thâu đêm dài” được lấy từ www.motherlandnigeria.com - Đoạn “Ave Maria” tiếng Ibo được lấy từ trang web: www. christusrex.org — Một số thành ngữ Nigeria được lấy từ “từ điển tiếng Anh Nigeria” của roger blench và Từ điển cách dùng tiếng Anh Nigeria của herbert Igboanusi, Nxb Enicrownfit, 2001. - Một số thành ngữ Jamaica được lấy từ Từ điển tiếng Anh Jamaica của F.G. Cassidy và r.b. Le Page, Nxb Đại học West Indies, 2002. - Một số thành ngữ tiếng Anh bốn tuổi được lấy từ con trai tôi, batman. — Câu “Chúng tôi không nghĩ là có ai lại đi xin quá nhiều băng vệ sinh để làm gì” được lấy từ báo cáo đặc biệt của hội đồng hạt bedfordshire ngày 18 tháng 7 năm 2002 về vụ hỏa hoạn xảy ra ở trại giam Nhập cư Yarl’s Wood ngày 14 tháng 2 năm 2002. — Chi tiết về hệ thống trại giam nhập cư của Vương quốc Anh do Christine bacon cung cấp. Việc Christine đạo diễn vở Những màn độc thoại của người tị nạn với sự tham gia của các nhóm Diễn viên vì người nhập cư tại Vương quốc Anh và Úc là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết này. bạn có thể tham khảo công trình nghiên cứu của cô, tựa đề “Sự phát triển của trại giam nhập cư ở Vương quốc Anh: Sự nhúng tay của các công ty nhà tù tư nhân” tại trang web www.rsc. ox.ac.uk/PDFs/rSCworkingpaper27.pdf — thông tin về khía cạnh y tế và xã hội của hệ thống nhập cư và trại tị nạn được tiến sĩ Mina Fazel, bob hughes và teresa hayter cung cấp. tôi cũng chân thành cám ơn bob và teresa vì sự nhiệt tình, khích lệ của họ, vì đã đọc bản thảo của tôi và đóng góp ý kiến. tính chính xác của tiểu thuyết này có được là nhờ họ; những sai sót không thể tránh khỏi là do tôi. Cám ơn Andy Paterson và Olivia Paterson vì những ghi chú tuyệt vời cho bản thảo ban đầu của tôi. Cám ơn Sharon Maguire và Anand tucker vì sự nhiệt thành và ủng hộ. tôi mang ơn Suzie Dooré, Jennifer Joel, Maya Mavjee, Marysue rucci và Peter Straus, những người đã kiên nhẫn đọc nhiều lần và biên tập thấu đáo cho các bản thảo của tôi. Sự đóng góp của họ là vô giá. tôi cám ơn các bạn. • Chris Cleave, London, 18 tháng 2 năm 2008 www.chriscleave.com Đời đánh ta má sưng vù Mỉm cười ta bảo phù vì béo thôi - Tục ngữ Nigeria Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Cứu Mạng của tác giả Chris Cleave.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6