Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)

Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đăng nhập để đọc

Những Màu Khác
Orhan Pamuk tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn sách đen, nhưng vì là một nhà văn tham vọng, “phổ màu” của ông còn muốn bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản văn ngắn, và lên sự đọc. Những màu khác minh chứng cho tham vọng ấy khá rõ. Cuốn sách là sự nối dài đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của ông, những thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng dẫn dắt ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay: Camus, Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng nhiều lần đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk. Nhận định: “Những màu khác bao gồm nhiều bài viết khác nhau, từ báo chí và từ nhiều nguồn khác, được biên tập lại và đôi khi được viết lại, để làm nên một bức chân dung nhất quán về một văn nhân… Ngoài sự thông minh đầy quyến rũ và những quan sát đầy thông tuệ, Những màu khác còn là kêu gọi chúng ta hãy lùi lại mà suy ngẫm kỹ về những nguyên nhân lịch sử và tâm lý đã dẫn đến những vấn nạn đáng lo của thế giới ngày nay.” - Roger Kaplan, Washington Post Book World “Ông là nhà thơ của mê cung những suy tư và tưởng tượng của chính ông, về cái thần kỳ và về cái mập mờ lưỡng nghĩa.” - Colin Thubron, The New York Review ”Từ Những màu khác vang lên một giọng nói một phần tinh nghịch một phần u tối, cái thực tại soi chiếu trong đó là thực tại mà một con họa mi trong đời thường phải đâm ganh tị.” - Richard Eder, Los Angeles Times Book Review *** Đây là một cuốn sách làm từ các ý tưởng, hình ảnh và phân mảnh của cuộc đời chưa tìm thấy lối vào một trong các tiểu thuyết của tôi. Tôi đặt chúng cùng nhau ở đây trong một mạch tự sự. Đôi khi tôi ngạc nhiên thấy mình đã không thể đưa vào tác phẩm hư cấu tất cả những ý nghĩ tôi cho là đáng khám phá: những khoảnh khắc kỳ cục của cuộc đời, những cảnh đời thường nho nhỏ mà tôi muốn chia sẻ với người khác, và những lời lẽ phát ra từ tôi với sức mạnh và niềm vui khi có dịp say mê. Một vài phân mảnh mang tính tự truyện; có bài tôi viết rất nhanh; có bài bị gạt qua một bên khi tôi dành sự chú ý cho việc khác. Tôi quay trở lại với chúng rất giống như khi quay trở lại những tấm ảnh cũ, và - mặc dù hiếm khi đọc lại tiểu thuyết của mình - tôi thích thú đọc lại những bài viết này. Cái tôi thích nhất là những khoảnh khắc các bài này vượt lên được khỏi tính nhất thời, khi chúng không chỉ đáp ứng được yêu cầu của tờ tạp chí hay tờ báo đặt hàng, mà còn bày tỏ những mối quan tâm, niềm nhiệt tình của tôi nhiều hơn là tôi dự định tại thời điểm viết. Để mô tả những khoảnh khắc vụt hiện đó, những khoảnh khắc kỳ lạ khi chân lý bằng cách nào đó được rọi sáng, Virginia Woolf từng dùng cụm từ “những khoảnh khắc hiện hữu”. Trong khoảng thời gian từ 1996 đến 1999 tôi viết những bài viết ngắn hằng tuần cho Oküz (Bò đực), một tạp chí chuyên về chính trị và hài hước; và tôi cũng vẽ minh họa cho những bài ấy. Đây là những bài tản văn ngắn trữ tình được viết một mạch, trong đó tôi rất ưa nói về con gái tôi và bạn bè của tôi, thăm dò các vật thể và thế giới bằng cặp mắt tươi mới, và nhìn thế giới bằng từ ngữ. Càng ngày, tôi càng bớt xem tác phẩm văn chương là kể về thế giới, mà là “nhìn thế giới bằng từ ngữ”. Từ thời điểm bắt đầu dùng từ ngữ như dùng màu trong hội họa, nhà văn có thể bắt đầu thấy thế giới thật diệu kỳ và lắm vẻ ngạc nhiên đến thế nào, và anh ta đào sâu vào ngôn ngữ để tìm ra giọng điệu riêng của mình. Để làm điều này anh ta cần giấy, bút, và sự lạc quan của một đứa trẻ nhìn thế giới lần đầu tiên. Tôi tập hợp những bài viết này để tạo thành một cuốn sách hoàn toàn mới lấy yếu tố tự truyện làm trung tâm. Tôi bỏ nhiều bài và cắt ngắn một số bài khác, chỉ lấy trích đoạn từ hàng trăm bài báo và đưa một số tiểu luận đến những vị trí xa lạ trong cuốn sách, những vị trí xem ra phù hợp với kết cấu của câu chuyện đó. Ví dụ, ba bài diễn văn được in thành một tập riêng ở Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều ngôn ngữ khác dưới nhan đề Cái vali của cha tôi (gồm diễn từ Nobel cùng tên, cũng như bài “Ở Kars và Frankfurt”, bài diễn văn tôi đọc nhân dịp Giải thưởng Hòa bình Đức, và bài “Tác giả ngầm ẩn”, bài diễn văn tôi đọc tại Hội nghị Puterbaugh) xuất hiện ở đây trong các phần tách biệt để phản ánh cùng một câu chuyện tự truyện ấy. Ấn bản Những màu khác này được dựng nên từ cùng bộ khung của cuốn sách cùng tên xuất bản lần đầu ở Istanbul năm 1999, nhưng cuốn sách trước mang hình thức của một tập hợp, trong khi cuốn sách này được định hình như một chuỗi các phân mảnh mang tính tự truyện, những khoảnh khắc, những ý nghĩ. Nói về Istanbul, hay bàn luận về các cuốn sách, tác giả, bức tranh yêu thích nhất của tôi, với tôi luôn luôn là một cái cớ để nói về cuộc đời. Những mẩu chuyện New York được viết năm 1986, khi tôi viếng thăm thành phố lần đầu tiên, và tôi viết chúng để ghi nhận những ấn tượng đầu tiên của một người nước ngoài, dự định dành cho độc giả Thổ Nhĩ Kỳ. “Nhìn ra cửa sổ”, câu chuyện ở cuối sách, mang tính chất tự truyện mạnh đến nỗi tên nhân vật rất có thể là Orhan. Nhưng người anh trong câu chuyện, như tất cả các người anh trong các câu chuyện của tôi, xấu xa và bạo tàn, không liên hệ gì với người anh của tôi ngoài đời thực, Şevket Pamuk, sử gia kinh tế xuất sắc. Khi soạn cuốn sách này, tôi bàng hoàng nhận ra tôi có mối quan tâm đặc biệt và khuynh hướng thiên về các thảm họa tự nhiên (động đất) và thảm họa xã hội (chính trị), và do vậy tôi đã gạt ra kha khá bài viết u ám về chính trị. Tôi luôn luôn tin rằng ắt phải có một kẻ cuồng viết tham lam và gần như không thể lay chuyển thường trú trong tôi - một sinh vật không thể bao giờ viết cho đủ, kẻ lúc nào cũng biến cuộc sống thành từ ngữ - và để cho hắn ta vui lòng tôi cần phải tiếp tục viết. Nhưng khi soạn cuốn sách này, tôi khám phá ra rằng kẻ cuồng viết đó sẽ vui hơn nhiều, và bớt đau đớn vì căn bệnh viết lách của hắn, nếu hắn làm việc với một biên tập viên trao cho những bài viết của hắn một trung tâm, một bộ khung, và một ý nghĩa. Tôi mong độc giả nhạy cảm hãy chú ý đến việc biên tập sáng tạo của tôi cũng nhiều như chú ý đến nỗ lực mà tôi đặt vào bản thân việc viết. Tôi hầu như không đơn độc trong việc là người ngưỡng mộ nhiệt thành nhà văn, nhà triết học Đức Walter Benjamin. Nhưng để chọc tức một người bạn quá mức sùng bái ông (dĩ nhiên cô là một người trong giới học thuật), đôi khi tôi hỏi, “Ông nhà văn này có gì mà quá vĩ đại? Ông ấy chỉ hoàn thành có vài cuốn sách, và nếu ông nổi tiếng, ấy không phải nhờ những tác phẩm ông đã hoàn thành mà là nhờ những tác phẩm ông chưa bao giờ hoàn thành nổi.” Bạn tôi trả lời rằng toàn bộ các tác phẩm của Benjamin, như bản thân cuộc đời, không có ranh giới và do đó có tính chất phân mảnh, và đó là lý do tại sao nhiều nhà phê bình văn chương đã rất cố gắng mang lại ý nghĩa cho các tác phẩm đó, như họ làm với cuộc đời. Và mỗi lần như thế tôi mỉm cười nói, “Một ngày nào đó tôi sẽ viết một cuốn sách cũng chỉ tạo thành từ các phân mảnh.” Đây là cuốn sách ấy, được đặt trong một cái khung để gọi ra một trung tâm mà tôi cố gắng che giấu: tôi hy vọng độc giả sẽ thích thú với việc tưởng tượng sao cho cái trung tâm ấy thành hiện hữu. Mời các bạn đón đọc Những Màu Khác của tác giả Orhan Pamuk & Lâm Vũ Thao (dịch).
Nguyện Ước Tháng Năm
Đỏ là một cây cổ thụ một trăm mười sáu tuổi và đồng thời là cây nguyện ước của khu phố nơi mọi người đến buộc điều ước của mình vào ngày mùng một tháng Năm hằng năm. Đỏ đã chứng kiến rất nhiều chuyện, đã lắng nghe rất nhiều điều ước, và năm nay, khi một gia đình người Hồi giáo chuyển tới sinh sống trong khu, Đỏ đã nhận được một điều ước đặc biệt từ cô bé Samar: cô bé ước có một người bạn. Khi Đỏ hay tin mình sắp sửa bị đốn hạ, cậu đã dùng hết khả năng của một cây cổ thụ để giúp Samar biến ước nguyện thành sự thật. *** Trò chuyện với cây cối không phải là việc dễ dàng, bởi chúng tôi hơi kiệm lời. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không thể làm được những chuyện đáng kinh ngạc, những chuyện mà loài người có lẽ chẳng bao giờ làm. Che chở cho những nhóc cú sơ sinh. Biến thành những ngôi nhà cây chắc chắn. Và quang hợp nữa. Nhưng trò chuyện với con người ấy hả? Không nhé. Và chắc chắn không ai có thể kì vọng một cái cây kể chuyện cười cho nghe. Cây cối chỉ trò chuyện với một vài người bạn, những người chúng tôi biết là đáng tin cậy ấy mà. Chúng tôi tán gẫu với lũ sóc liều lĩnh, đám sâu chăm chỉ, những cô bướm đỏm dáng, và cả những chú ngài bẽn lẽn nữa. Đám chim như thế nào à? Lúc nào cũng vui tươi. Họ nhà ếch thì sao? Mặt mũi quàu quạu, nhưng rất tốt tính. Rắn nữa? Chuyên gia buôn chuyện đấy. Còn cây? Chà, tôi chưa gặp cái cây nào khó ưa cả. À thì, chỉ có mỗi cây đinh hương ở góc đường thôi. Í éo í éo í éo cả ngày, chính là nó đấy. Vậy cây cối có bao giờ nói chuyện với loài người không? Lên tiếng thực sự - một khả năng rất “người” ấy? Câu hỏi hay đấy. Thật ra mối quan hệ giữa cây cối và loài người rất phức tạp. Chỉ vừa ôm ấp bọn tôi xong mà ngay sau đó các bạn đã có thể biến chúng tôi thành vài cái bàn gỗ, hoặc mấy que đè lưỡi được rồi. Có thể bạn đang tự hỏi sao vụ cây biết nói này không được nhắc đến trong mấy lớp Khoa học nhỉ, mấy cái tiết gì mà “Mẹ Thiên nhiên là bạn thân của loài người” ấy? Chà, đừng vội trách móc thầy cô của bạn nhé. Chẳng qua là họ không biết cây có thể nói chuyện thôi. Hầu hết loài người đều không biết điều này. Nhưng dù sao thì, nếu một ngày đặc-biệt-may-mắn nào đó, bạn tình cờ đứng cạnh một cái cây trông đặc-biệt-thân-thiện, thì hãy thử lắng nghe xem. Cây cối không giỏi nói đùa lắm. Nhưng chúng tôi chắc chắn biết kể những câu chuyện hay. Và nếu bạn chỉ nghe được tiếng lá cây rì rào, thì cũng đừng buồn. Chỉ vì đa số cây cỏ tụi tôi đều là những kẻ rụt rè hướng nội thôi. Mời các bạn đón đọc Nguyện Ước Tháng Năm của tác giả Katherine Applegate & Hoàng My (dịch).
Người Quét Dọn Tâm Hồn
Người Quét Dọn Tâm Hồn là những ghi chép của Hiroshe Kamata, người đã có 15 năm cống hiến cho việc giữ sạch công viên giải trí Disneyland Nhật Bản. Vì điều này mà những diễn biến trong tập sách đều là câu chuyện có thật, xảy ra tại nơi được mệnh danh là vương quốc của những giấc mơ. Điểm thú vị là những nhân vật của Hiroshe Kamata đều đang ở những vị trí khá thấp. Đó là những người quét dọn, người giữ sạch Disneyland Nhật Bản, giữ cho những thứ đồ chơi trong công viên này long lanh để phục vụ du khách… Có người yêu thích, có người không yêu công việc họ đang làm. Cũng có người yêu thích, nhưng vẫn nhiều mặc cảm khi ở trong bộ đồng phục lao công, chiếc chổi trên tay... Nhưng, qua những tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật, người đọc sẽ khám phá ra ánh hào quang tỏa ra từ những con người thầm lặng, đang làm đẹp cho Disneyland. Người tạo cảm hứng để Hiroshe Kamata viết nên tập sách này là Chuck Boyajian, người được biết đến với danh hiệu "Thần quét dọn" trụ sở Disneyland ở Mỹ. Chỉ bằng biểu cảm của ông trong việc lao dọn nhà vệ sinh, ông đã giúp tác giả Người quét dọn tâm hồn tìm thấy niềm vui, niềm tự hào trong công việc. Để rồi từ đó, Hiroshe Kamata luôn cố gắng để lan tỏa tinh thần của “Thần quét dọn” đến tất cả nhân viên của mình.  Thông điệp của tập sách đơn giản nhưng lại hết sức ấn tượng: Dù bạn là ai, đang làm công việc gì, chỉ cần tìm thấy tình yêu và chân giá trị của công việc, bạn cũng sẽ tỏa sáng. Đôi nét về tác giả Hiroshe Kamata: Ông sinh năm 1950 tại Miyagi. Sau 15 năm làm việc tại Disneyland, từ vị trí giám sát bộ phận quét dọn bạn đêm đến vị trí giám sát ban ngày và cuối cùng là quản lý bộ phận giáo dục, ông quyết định rời Disneyland và thành lập một công ty cố vấn với mục tiêu truyền đạt tất cả kiến thức của ông về bồi dưỡng nguồn nhân lực đến thật nhiều doanh nghiệp. *** T rong cuộc đời mỗi người đều có những khoảnh khắc không bao giờ quên. Đến tận bây giờ, mỗi khi nhắm mắt lại, trong tâm trí tôi vẫn hiện rõ một hình ảnh sẽ theo tôi đến cuối cuộc đời. Đó là vào ngày mùa đông lạnh giá 28 năm trước, trong những cơn gió lạnh buốt, dữ dội, một điều kỳ diệu đã xảy ra tại văn phòng làm việc tạm thời ở khu vực xây dựng Disneyland Tokyo, thành phố Urayasu. Thời gian đó, tôi bị bủa vây bởi rất nhiều mối lo và áp lực. Tôi luôn tự động viên mình: “Cố lên nào! Nếu tiếp tục cố gắng, mình sẽ có được một công việc ở Disneyland”. Cuối cùng, sau 5 lần ứng tuyển, tôi cũng được nhận vào làm việc tại Disneyland. Tôi cảm thấy hạnh phúc với vị trí Night Custodial, tức “người hướng dẫn kiêm giám sát nhân viên quét dọn ca đêm”. Đó là nhiệm vụ rất đáng phấn khởi đối với những nhân viên được nhận vào vị trí này. Công việc này không trao cho tôi quyển hộ chiếu dẫn vào một tiền sảnh đầy hoa với những tiếng vỗ tay náo nhiệt hay một thế giới của những giấc mơ tuyệt đẹp, song lại đưa tôi vào một thế giới tĩnh lặng và chắc chắn không có những vị khách như chú chuột Mickey hay nàng chuột Minnie ghé thăm. Chúng tôi lặng thầm quét dọn tới, lui khu vực bãi đỗ xe trong đêm khuya tĩnh mịch. Hầu như nhân viên quét dọn không mấy ai cảm thấy vui vẻ khi nghĩ đến điều này, thậm chí nhiều người còn không muốn thừa nhận mình đang làm công việc quét dọn. Hơn nữa, vì công việc lúc trước của tôi không liên quan gì đến công việc hiện tại, nên tôi cũng chỉ là một nhân viên nghiệp dư. Trong nhóm đồng nghiệp của tôi cũng có người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu trước cuộc sống sinh hoạt đảo lộn giữa ngày và đêm. Riêng tôi cũng có nhiều suy nghĩ lẫn lộn. Tôi nhận thấy mọi người ai ai cũng trăn trở và cảm giác như đang lầm đường lạc lối, khiến tôi luôn tự hỏi, “Tôi nỗ lực hết sức để làm công việc này để làm gì?”. Ngay thời điểm ấy, một nhân vật đã xuất hiện – một người đàn ông trung niên được mệnh danh là “Thần quét dọn” đến từ trụ sở Disney ở Mỹ. Vài ngày sau khi đến, ông tập hợp chúng tôi tại một nhà vệ sinh hôi hám trong một văn phòng tạm thời. Chúng tôi đứng quây quần ở một khoảng cách nhất định đủ để quan sát ông. Phải, chúng tôi không muốn vào trong một nhà vệ sinh mà khắp nơi chỉ toàn những vũng nước bẩn và vết dơ, vết ố mà bất kỳ ai đi ngang đều muốn nhanh chân bước qua. Không nói gì, ông chậm rãi mang găng tay cao su, lẳng lặng bước về phía nhà vệ sinh vốn không khác gì một nơi bị ma ám đó. Mọi người đều lùi lại và đưa mắt nhìn nhau. Rồi ông bắt đầu cẩn thận cọ rửa bồn cầu một cách hết sức tự nhiên, hệt như đang ôm ấp đứa con của mình. Âm thanh chà xát vang lên, đập vào tai chúng tôi theo nhịp điệu của miếng bọt biển để chà bồn. Những vết bẩn cứng đầu bám dính trong các đường rãnh trên sàn nhà hay những đường viền xung quanh bồn cầu bắt đầu biến mất. Nhờ bàn tay của ông, bồn vệ sinh đó như được tiếp thêm sinh khí và lấy lại vẻ sáng bóng vốn có. “Chuyện này là sao!?”. Những gì tôi vừa chứng kiến khác hoàn toàn với công việc quét dọn mà tôi thường nghĩ. Hình như tôi đang nhìn thấy mọi việc ở một góc độ khác. Tôi chăm chú dõi theo từng hành động của ông, và rất muốn cử động đôi tay mình theo nhịp đôi tay ông đang làm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hứng thú với công việc dọn dẹp nhà vệ sinh như lúc này. Những đồng nghiệp của tôi cũng vậy, tất cả họ đều bắt đầu cử động cơ thể. Và sau khi toàn bộ nhà vệ sinh ngập tràn vẻ lấp lánh, sáng bóng, ông quay mặt về phía chúng tôi và mỉm cười – một nụ cười hao hao giống với nụ cười của Walt Disney, người sáng lập thế giới Disney. Lúc đó tôi cảm nhận được một sự khoan khoái không thể diễn tả thành lời. Ông không chỉ quét dọn những vết bẩn trong nhà vệ sinh, mà còn quét sạch thứ cảm giác thấp kém và sự chối bỏ công việc mà chúng tôi đang mang trong mình. Và như thế, ông đã thần kỳ biến chúng tôi từ những con người đang chán ngán công việc trở thành những nhân viên yêu thích và tự hào công việc quét dọn hơn bao giờ hết. Ông tên là Chuck Boyajian, người được ông Walt đặt trọn niềm tin, và thường được biết đến với danh hiệu “Thần quét dọn” của thế giới Disney. Lúc đó, tôi không hề biết rằng sự hiện diện của ông có ý nghĩa lớn lao đối với cuộc đời tôi đến vậy. Ông là một người thầy đáng kính đã dạy bảo tôi rất nhiều bài học quý báu. Nếu được quay trở lại khoảnh khắc đó một lần nữa, tôi vẫn muốn được chiêm ngưỡng phép thuật của ông, một thứ phép thuật thay đổi cuộc đời tôi, một thứ phép thuật mãi mãi không bao giờ biến mất. Ngay lần đầu ghé thăm Disneyland ở Anaheim, California, tôi đã bị làm cho mê mẩn. Đó là “nơi tâm hồn mọi người hòa làm một”, “nơi có thể gặp những nhân vật cổ tích có thật trong trái tim của bất cứ ai” và là nơi duy nhất không thể tìm thấy được ở đâu khác trên thế giới. Tôi đã ấp ủ ước mơ được trở thành một phần của thế giới tuyệt vời này ngay từ lúc đó. Vì vậy, nghe tin Disneyland Tokyo sắp mở cửa, tôi cảm thấy như định mệnh ưu ái sắp đặt sẵn một cánh cửa cho tôi bước gần tới ước mơ hơn. Ngay lập tức, tôi đã từ bỏ công việc cũ để nộp đơn xin vào đây mà không cần suy nghĩ. Từ lúc bước vào cánh cửa đó, tôi liên tiếp nhận được những điều kỳ diệu đến không tưởng. Vì mọi thứ quá rực rỡ, quá màu nhiệm, đôi khi tôi cứ ngỡ đây chỉ là một giấc mơ. Quyển sách này là những câu chuyện thực tế mà tôi đã trải nghiệm thời trẻ khi gắn bó với Disneyland. Từng câu chuyện tạo nên một cuốn tiểu thuyết huyền ảo, đan xen giữa mơ và thực. Có thể, bạn sẽ cảm thấy lạ lẫm và mới mẻ, vì quyển sách này không lập tức mang đến cho bạn nhiều thông tin như sách về Disney, nhưng qua những đặc điểm tính cách thú vị tiềm ẩn ở mỗi nhân vật trong từng câu chuyện, bạn sẽ tự khám phá ra “Ánh hào quang tỏa ra từ những con người làm việc tại Disneyland”, giống như trong trò chơi tìm kiếm chú chuột Mickey ẩn mình trong bãi đỗ xe vậy. Như một phép nhiệm màu, thông qua công việc quét dọn đầy giá trị trân quý ở Disneyland, tôi đã tìm ra “chân giá trị về công việc giúp bản thân và người khác hạnh phúc”. Và tôi hy vọng phép màu ấy cũng giúp bạn tự mình tìm ra niềm vui trong công việc và cuộc sống. 0 giờ, ngày 4 tháng 1 năm 1983 là ngày bắt đầu công việc của tôi – một người nhân viên quét dọn ca đêm. Kể từ đêm đó, cánh cửa dẫn đến “thế giới của giấc mơ và những cuộc phiêu lưu” đã mở ra cho bản thân tôi. Thật sự lúc ấy tôi vẫn chưa hiểu hết mọi nỗi nhọc nhằn, khó khăn, vất vả trong công việc cũng như cách nối kết những mối quan hệ nơi làm việc. Thỉnh thoảng tôi vẫn phân vân không biết liệu mình có thật sự muốn làm công việc hiện tại không. Tôi cố gắng tìm kiếm cơ hội để trải nghiệm những điều hay ho và mới mẻ. Và tôi đã tích lũy được nhiều bài học để đời quý giá qua việc quét dọn tại bãi đỗ xe trong màn đêm vắng lặng cũng như qua những gì học tập được từ Thần quét dọn. Vì vậy, qua quyển sách này, tôi muốn gửi đến cho các bạn báu vật “những bài học đáng suy ngẫm và đầy cảm động về chân giá trị của công việc”. Dưới đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Mong rằng các bạn có thể có những phút giây vui vẻ qua những trang sách. Bây giờ, xin chào mừng bạn đến với thế giới quét dọn lạ thường của thế giới Disney! Hãy cùng tôi lần giở những trang sách này thật chậm nhé! Tháng 9 năm 2011 Hiroshi Kamata   Mời các bạn đón đọc Người Quét Dọn Tâm Hồn của tác giả Hiroshi Kamata & Hạnh Phan & Nhóm Sóc Xanh (dịch).
Họp Mặt
Chín đứa con còn sống sót của nhà Hegarty họp mặt tại Dublin dự tang lễ của Liam, một người con vừa chết đuối. Veronica, người em gái, đã tới canh cái xác, bầu bạn với nó, và canh cả bí mật cô từng cùng anh chia sẻ: một chuyện đã xảy ra trong nhà bà ngoại họ mùa đông năm 1968, một bí mật tăm tối đã khiến cuộc đời họ vĩnh viễn biến hình. Trong lúc Enright lần theo những con đường của sự phản bội và cứu chuộc qua ba thế hệ, bà đã cho thấy ký ức có thể thay đổi đến đâu, và những bí mật có thể gây ra chừng nào đau đớn. Ở tác phẩm này, cũng như mọi tác phẩm khác mà Enright từng viết, trí tuệ đặc biệt của bà đã vặn xoắn thế giới một chút rồi trả lại nó cho chúng ta trong ánh sáng mới và không thể lãng quên. *** Đôi nét về tác giả Anne Enright Anne Enright sinh năm 1962 ở Dub­lin, học tiếng Anh và triết ở Trin­ity Col­lege, Dub­lin, và học tiếp lấy bằng thạc sĩ về sáng tác ở Đại học East Anglia. Bà có lúc làm nhà sản xuất chương trình truyền hình. Cuốn sách đầu tiên của bà là tập truyện The Port­able Vir­gin (Tượng Mẹ đồng trinh xách tay), ra đời năm 1991, và đoạt giải Rooney của văn học Ireland. Hai tập truyện kế đó, Tak­ing Pic­tures (Chụp hình) và Yesterday’s Weather (Thời tiết hôm qua) được xuất bản năm 2008. Các tiểu thuyết của bà là The Wig My Father Wore (1995; Mái tóc giả cha tôi đội); What Are You Like? (Trông bạn ra sao?) đoạt giải Encore Award 2001; The Pleas­ure of Eliza Lynch (2002; Niềm vui của Eliza Lynch); và The Gath­er­ing (2007; Họp mặt) đoạt giải Man Booker cho truyện năm 2007. *** Lời khen tặng dành cho Họp mặt “Trí tuệ đến liều lĩnh, khiếu hài hước hoang dại, chậm rãi trong diễn tiến, không một chút ủi an: tiểu thuyết của Enright rất tăm tối, nhưng đó cũng là điều khiến nó lấp lánh.” – New York Times Book Review “Tiết chế đến kinh ngạc và cách nhìn không tì vết.” – Los Angeles Times “Giọng kể của cuốn sách phảng phất âm hưởng nỗi đau lạnh lùng đầy giận dữ kiểu Joan Didion, nhưng lòng trắc ẩn ấm áp có lẽ gợi nhớ Người Dublin của James Joyce.” – Washington Post “Enright đã viết một tiểu thuyết nghiệt ngã mà trang nhã tuyệt vời, đưa chủ đề Ireland quen thuộc là sự bất thường trong gia đình và thói đỏng đảnh của ký ức vào vùng lãnh địa được đắp thêm thịt da bằng một sự khách quan chính xác tới mức khiến nó lại gần như tràn đầy lòng thương…” – Los Angeles Times “Một cái nhìn trực diện vào một gia đình đau thương… một tiểu thuyết rất đáng đọc và đáng hài lòng.” – Ngài Howard Davies, Chủ tịch Ban Giám khảo giải Man Booker “Mê hoặc, lạnh lùng, sâu sắc. Họp mặt là một cái nhìn ám ảnh vào một gia đình tan vỡ, bị bóp nghẹt bởi hàng thế hệ đau thương, thất vọng, vật lộn thỏa hiệp với điều không thể thay thế.” – Entertainment Weekly *** Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra tại nhà bà ngoại tôi hồi mùa hè năm tôi tám chín tuổi gì đó, nhưng tôi không chắc liệu nó có thực sự xảy ra không. Tôi cần làm chứng cho một sự kiện không chắc chắn. Tôi cảm thấy nó kêu gào trong tôi - cái điều có thể đã không xảy ra này. Thậm chí tôi không biết gọi tên nó là gì. Chắc có thể gọi nó là một tội lỗi về xác thịt, nhưng xác thịt đã từ lâu tan rã và tôi không chắc nỗi đau nào có thể còn day dứt trong xương. Anh Liam của tôi thích chim và, giống như mọi cậu trai khác, anh thích xương những con thú chết. Tôi không có con trai, vì vậy khi đi ngang qua bất kỳ cái đầu lâu hay bộ xương nhỏ nào tôi cũng đều chậm bước và nghĩ về anh ấy, về chuyện anh ấy từng mê thích những nét phức tạp của chúng. Đôi cánh già nua của một con ác là thò ra khỏi mớ lông bù xù; chắc mập và nhẹ và sạch. Đó là từ chúng ta dùng cho xương: Sạch. Tôi bảo các con gái mình tránh xa cái sọ chuột trong rừng hoặc con chim sẻ chết đang trải nắng mưa cạnh bức tường khu vườn, dĩ nhiên. Tôi không chắc tại sao. Dù vậy, đôi khi chúng tôi tìm thấy, trên bãi biển, một cái mai mực trắng tinh khiết đến độ tôi phải tuồn nó vào túi áo, và tôi an ủi tay mình bằng cách mân mê cái vòm cong trắng bí mật của nó. Bạn không thể phỉ báng người chết, tôi nghĩ, bạn chỉ có thể an ủi họ. Vì vậy tôi tặng Liam bức tranh này: hai đứa con gái của tôi đang chạy trên rìa cát bãi biển lổn nhổn đá, dưới bầu trời vần vũ sà xuống thấp, vai áo khoác hất ra sau. Sau đó tôi xóa nó. Tôi nhắm mắt và buông mình lăn theo tiếng tĩnh điện ầm ĩ của biển cả. Khi tôi mở mắt ra, đó là để gọi mấy đứa con gái trở lại xe. Rebecca! Emily! Điều đó không quan trọng. Tôi không biết sự thật, hoặc tôi không biết cách kể sự thật. Tôi chỉ có những câu chuyện, những ý nghĩ về đêm, những niềm tin bất ngờ đẻ ra trong tình trạng không chắc chắn. Tôi chỉ có những lời cuồng loạn, giống vậy hơn. Bà yêu ông ấy! Tôi nói. Bà hẳn đã yêu ông ấy! Tôi chờ cái ý nghĩa mà bình minh mang đến, khi bạn không ngủ. Tôi ở lại dưới nhà trong khi cả gia đình thở đều ở phía trên và tôi viết ra điều này, tôi trải chúng ra thành những câu đẹp, tất cả những xương trắng, sạch của tôi. Mời các bạn đón đọc Họp Mặt của tác giả Anne Enright & Phạm Viêm Phương (dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6