Notice: Undefined variable: dm_xaphuongcode in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/router/route_congdong.php on line 13
Quản lý thư viện cộng đồng
Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đêm Đen Buông Xuống (Dean R Koontz)

Dean Koontz, sinh ngày 9 tháng 7 năm 1954 tại Everett, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp Đại học Shippensburg Pennsylvania vào năm 1967, sau đó ông là giáo viên dạy tiếng Anh tại trường trung học Mechanicsburg ở Mechanicsburg, Pennsylvania. Là nhà văn chuyên viết về thể loại li kì, khoa học viễn tưởng. Ông viết viết tiểu thuyết để người đọc quên mình và rơi vào thế giới đầy mạo hiểm và kinh dị, giao dịch với thế giới khoa học viễn tưởng, du lịch vượt thời gian, đồng hành cùng kẻ giết người...

Một số tiểu thuyết của Dean Koontz được New York Times đánh giá là một trong những sách bán chạy nhất (Lightning, Midnight, Cold Fire, Hideaway, Dragon Tears, Intensity và Sole Survivor)... Sớm nổi tiếng trong sự nghiệp của mình, Dean Koontz đã viết dưới nhiều bút danh, bao gồm: Deanna Dwyer, K. R. Dwyer, Aaron Wolfe, David Axton, Brian Coffey, John Hill, Leigh Nichols, Owen West, Richard Paige, Leonard Everett.

Có thể cái tên Dean Koontz không đủ để gợi nhắc cho người đọc biết ông là ai, nhưng những cuốn sách của ông lại vô cùng quen thuộc với độc giả. Dean Koontz có một sự nghiệp văn học đồ sộ với hàng chục tiểu thuyết và truyện ngắn, bao gồm cả tiểu thuyết viễn tưởng. Những tác phẩm của ông đã bán được hơn 450 triệu bản trên toàn thế giới kể từ lần xuất bản đầu tiên năm 1968.

Những tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam:Frankenstein,

Giao Lộ Sinh Tử (Odd Thomas #1), Tìm mua: Đêm Đen Buông Xuống TiKi Lazada Shopee

Bóng Ma Trong Gương (The Face),

Đêm Đen Buông Xuống (Dark Fall)

Thập Đại Tùng Thư - 10 Đại Hoàng Đế Thế Giới

***

1 giờ 12’ sáng thứ tư ngày 8 tháng 12.

Penny Dawson thức giấc và nghe trong đêm có một tiếng động vụng trộm lén lút.

Bé tưởng mình vẫn đang mơ. Lúc nãy, trong giấc ngủ bé đã mơ thấy các chú ngựa và đó là giấc mơ tuyệt vời nhất trong suốt quãng đời ngắn ngủi mười một năm của bé. Bé cố ngủ lại để trở về với giấc mơ dịu dàng đó, nhưng tiếng động lạ thường làm bé khiếp sợ. bé thầm nghĩ: Hẳn đó chỉ là tiếng động gây ra bởi con ngựa trong giấc mơ của bé hoặc tiếng rơm rạ trong chuồng ngựa và chẳng có gì để phải hốt hoảng. Tuy vậy, ý nghĩ đó không làm bé an tâm; bé không thể tin cái tiếng động lạ lùng đó xuất phát từ giấc mơ và vì thế bé sực tỉnh hẳn.

Tiếng động đó xuất phát từ giường Davey ở cuối căn phòng! Nhưng đó chẳng phải là tiếng khò khè của đứa bé trai đang ngủ sau bữa ăn tối no nê. Đó là thứ tiếng xuẫn động, vờ vĩnh. Rõ ràng là thế.

Penny thầm nghĩ: Không biết thằng bé đang giở trò gì đây?

Cô bé ngồi dậy và nhướng mắt nhìn vào bóng đêm dày đặc nhưng không thể trông thấy gì. Bé ngẩng đầu, lắng tai nghe ngóng.

Sự tĩnh mịch của đêm bị phá vỡ bởi tiếng rì rào, một tiếng thở dài. Rồi im bặt. Penny nín thở, cố lắng tai nghe cho rõ.

Một tiếng rít. Rồi một thứ tiếng giống như tiếng cào hoặc tiếng cọ xát.

Tối đen như mực, nhưng cửa phòng vẫn để hé mở. Hai đứa bé luôn để cửa mở khi ngủ để cha chúng có thể nghe thấy tiếng, trong trường hợp chúng thức giấc và gọi bố. Tuy nhiên, mọi ngọn đèn trong căn hộ đều tắt cả.

Penny gọi nhỏ:

— Davey?

Không có tiếng trả lời.

— Davey, em đó hả?

Hou-Hou. Hou-Hou...

— Thôi đi Davey!

Vẫn không có tiếng trả lời.

Penny thầm nghĩ: Bọn nhóc bảy tuổi quá tinh nghịch đến mức không thể chịu nổi. cô bé nói:

— Nếu em còn tiếp tục chơi cái trò ngu xuẩn đó thì em sẽ biết tay chị!

Một tiếng động khô khốc, tựa như chiếc lá vàng bị bàn chân ai giẫm và thứ tiếng động đó đang tiến gần lại.

— Này Davey, chớ có làm trò quỷ quái!

Và tiếng động lại càng gần hơn! Một cái gì đó đang đi ngang qua căn phòng, hướng về cái giường. Penny biết đó không phải Davey bởi thằng bé còn quá nhỏ để có thể đùa dai ở mức độ tài tình như vậy.

Tim Penny đập nhanh trong lồng ngực khi cô bé cho rằng đây có thể là mơ, tựa như giấc mơ về ngựa ban nãy, nhưng lần này thì không êm ái chút nào.

Nhưng đồng thời Penny biết rõ mình đang tỉnh.

Cô bé chảy nước mắt khi nhìn chăm chăm vào bóng tối. Bé đưa tay bật cây đèn ngủ ở đầu giường nhưng trong một lúc lâu, bé không tìm được công tắc. Bé vô vọng sờ soạng trong bóng tối.

Giờ đây, có thứ âm thanh êm nhẹ đang phát ra cạnh giường bé. Cái vật đó đang ở rất gần!

Cuối cùng, bàn tay bé đã chạm được công tắc đèn. Ánh sáng tỏa xuống giường và sàn nhà. Chẳng thấy một sinh vật đáng sợ nào trong vùng sáng cả. Tuy sánh sáng không đủ mạnh để đẩy lùi toàn bộ bóng tối nhưng cũng đủ để Penny hiểu rằng chẳng có gì nguy hiểm và đáng sợ. Ở giường bên kia, Davey đang ngủ ngon lành.

Penny không còn nghe thấy tiếng động lạ nữa. Nhưng bé đã biết đây không phải mình tưởng tượng và bé cũng không phải loại người chỉ biết tắt đèn rồi trùm kín chăn để quên đi mọi chuyện. Bố thường bảo bé là người tò mò nhất trên đời mà! Và thế là bé tung chăn, ra khỏi giường và đứng lặng im để nghe ngóng.

Không một tiếng động.

Penny bước về phía giường Davey để nhìn kỹ thằng bé hơn. Ở đây tuy không sáng lắm, nhưng đủ để bé thấy Davey đang ngủ say. Penny cúi người để xem đôi mi của Davey có xao động không và cô bé biết thằng bé không hề giả vờ ngủ.

Tiếng động lại phát ra từ phía sau Penny.

Cô bé quay phắt lại.

Lúc này, tiếng động phát ra từ dưới giường. Đó là thứ tiếng nghe như tiếng rít, tiếng cào cào hoặc như tiếng cái lúc lắc ngân lên nhè nhẹ, không ồn lắm những cũng chẳng êm tai.

Cái vật dưới giường hình như hiểu rõ Penny đang nghĩ gì và nó cố ý gây ra tiếng động để trêu chọc, dọa dẫm bé!

Penny nghĩ thầm: Hẳn vật đó không phải ông Ba Bị đi. Chuyện ông ba bị chỉ mỗi Davey mới tin...chứ Penny này thì lớn rồi mà. Chắc là con chuột. Đúng vậy!

Penny cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm. Bé không thích chuột, nhất là khi chúng chui xuống giường để phá phách. Nhưng một chú chuột nhắt thì không việc gì phải sợ chứ!

Penny đứng như thế một lúc, tự hỏi bây giờ mình nên làm gì.

Cuối cùng bé nghĩ đến bố.

Penny không muốn đánh thức bố dậy khi mà bé chưa biết chắc đó có phải chuột hay không. Nếu bố sang mà không nhìn thấy con chuột nào chẳng phải mất mặt lắm sao? Trong hai tháng nữa, bé sẽ được mười hai tuổi và điều mà bé ghét nhất là bị xem như con nít.

Bé biết mình không thể nhìn xuống dưới giường bởi dưới đó quá tối, đã vậy còn bị chăn mền che khuất.

Vật dưới giường (hay con chuột) rít lên rồi phát ra tiếng ùng ục như tiếng người, thứ tiếng khàn đục, lạnh lùng, hung dữ, như muốn nói với Penny bằng một thứ ngôn ngữ mà cô bé không thể hiểu.

Penny thắc mắc, không biết con chuột có thể gây ra tiếng động như vậy chăng?

Rồi bé nhìn sang Davey. Thằng nhóc đang ngủ, nơi góc tường cạnh giường nó là cây gậy bóng chày bằng nhựa. Penny cầm lấy.

Dưới giường, cái tiếng động lạ lùng khó chịu đó - thứ tiếng rít - cào - cọ xát - vẫn liên tục vang lên.

Penny đi về phía giường và quỳ xuống. Bé cầm gậy bóng chày trong tay, hất mớ chăn mền lên. Không thể nhìn thấy gì: dưới giường tối thui như hang động.

Tiếng động ngưng hẳn.

Penny cảm thấy khiếp đảm. Bé tưởng chừng như có cái gì đó núp trong bóng tối rình rập bé... một cái gì đó không phải chuột... Một cái gì đó biết rằng bé chỉ là đứa bé gái nhỏ... Một cái gì đó quỷ quái, xảo trá, có thể vồ lấy bé mà nuốt chửng!

Rồi bé thầm nghĩ: Đó chỉ là ý tưởng của một đứa con nít!

Bé cắn môi, dứt khoát không thể cam chịu như vậy. Rồi bé dùng gậy bóng chày quơ lung tung dưới giường nhằm để con chuột kêu lên hoặc buộc nó phải chạy ra.

Khổ nỗi, có cái gì đó đã bấu vào đầu cây gậy! Penny cố đẩy nó ra nhưng không thể được. Bé cố lắc mạnh cây gậy, vặn vẹo đủ kiểu nhưng không bứt ra được.

Thế rồi bỗng nhiên, cây gậy vuột khỏi tầm tay bé và biến mất dưới giường trong một tiếng động khô đục. Penny ngã bật ra sau, chạm vào giường Davey, vậy mà bé tưởng mình bất động. chỉ mới vài giây trước, bé đã quỳ bên giường Davey nhìn thằng nhóc ngủ. Vậy mà bây giờ, đầu bé đập xuống trên tấm nệm của giường nó. Trong giấc ngủ, Davey ú ớ vài tiếng, thở dài rồi lại tiếp tục say ngủ.

Dưới giường Penny, chẳng còn một tiếng động nào nữa.

Giờ đây, Penny đang nghĩ đến chuyện kêu cứu bố. Cô bé gào lên nhưng tiếng kêu chỉ vang vang trong tâm trí. ‘Ba, ba, ba ơi!’, không một thanh âm nào thoát ra. Trong phút chốc bé hoàn toàn chết lặng.

Ánh đèn bỗng dưng nhấp nháy. Sợi dây đèn được cắm vào một ổ điện phía sau giường và cái vật đó đang tìm cách rút sợi dây.

“Ba!” Penny rốt cuộc thốt lên nhưng chỉ là tiếng thì thào bị bóp nghẹn.

Cây đèn nhấp nháy một lúc rồi tắt ngấm.

Một lần nữa, căn phòng lại chìm vào bóng tối. Penny nghe có sự chuyển động. Cái vật đó đã ra khỏi gầm giường và chạy trên sàn.

“Ba ơi!”, Penny lại gào lên.

Nhưng vẫn chỉ là tiếng thều thào. Cổ họng cô bé khô khốc. Bé cố nuốt nước bọt để cổ họng thông thoáng.

Có tiếng ken két.

Nhìn chăm chăm vào bóng đèn bằng đôi mắt sợ hãi, Penny bắt đầu run rẩy và thốt lên những tiếng kêu nho nhỏ.

Thế rồi bé hiểu ra rằng tiếng ken két là tiếng cái bản lề cửa bị khô dầu.

Bé đoán rằng cái cửa đang chuyển động tuy không nhìn thấy, cánh cửa vốn hé mở và giờ đây, nó được mở toang. Không còn tiếng ken két cũng như cái tiếng rít - cào bí ẩn đó đang xa dần. Dẫu sao, cái vật đó sẽ không tấn công bé.

Bây giờ, nó đang ở ngưỡng cửa.

Bây giờ, nó đang ở ngoài hành lang.

Bây giờ, nó đang cách cánh khoảng ba bốn bước.

Và... nó đi rồi!

Những giây phút trôi qua chậm như cả thế kỷ.

Đó không phải chuột, cũng không phải mơ.

Thế thì là cái gì nhỉ?

Cuối cùng, Penny nhổm dậy. Đôi chân bé mềm nhũn. Bé bước đi, dò dẫm trong bóng tối để tìm cây đèn ngủ ở đầu giường Davey. Công tắc phát ra tiếng kêu “tách" và ánh sáng tỏa xuống đứa bé trai đang ngủ. Penny vội vàng đưa tay đẩy chụp đèn sang một bên.

Rồi bé đi về phía cửa, đứng im mà lắng nghe. Tất cả đều im lặng. Vẫn còn run rẩy, bé đóng cửa lại rồi chùi hai tay ướt đẫm mồ hôi vào áo ngủ. Giờ đây căn phòng đã đủ sáng để bé có thể trở lại giường. Bé khom người nhìn xuống dưới giường một lần nữa. Chẳng còn gì đáng sợ nữa rồi. Bé cầm lấy cây gậy bóng chày: đầu cây gậy đã bị khoét sâu bởi những lỗ nhỏ. Penny thắc mắc không hiểu nó bị đục thủng bởi cái gì? Móng vuốt à?

Penny vặn người để cắm lại sợi dây đèn đã bị rời ra khỏi ổ. Rồi bé tắt cây đèn ngủ trên đầu giường Davey.

Ngồi ở đầu giường, bé nhìn chăm chăm cái cửa đang đóng kín một lúc. Cuối cùng bé thốt lên:

“Chuyện gì đã xảy ra vậy nhỉ?"

Càng suy nghĩ bé càng thấy sự việc vừa xảy ra thật không thực tế. Có thể cây gậy bóng chày đã bị vướng trong giắt lò xo giường và bị mớ đinh ốc ở đó đâm thủng chăng? Còn cái cửa có thể bị gió đẩy ra cũng không chừng?

Có thể lắm chứ...

Cuối cùng, không dằn được sự tò mò, bé đứng dậy, đi ra hành lang, bật đèn sáng rồi cẩn thận đóng cửa lại.

Yên lặng...

Như thường lệ, cánh cửa phòng bố vẫn mở hé. Bé thò đầu vào nghe ngóng. Có tiếng ngáy đều đều của bố, ngoài ra chẳng còn tiếng động gì khác lạ. Một lần nữa, bé nghĩ liệu mình có nên đánh thức bố dậy không. Bố là sỹ quan cảnh sát: trung úy Jack Dawson. Và bố có súng. Nếu thực sự căn hộ này bị xâm nhập thì bố sẽ bắn kẻ thù ngay. Nhưng nếu bé đánh thức bố rồi sau đó không phát hiện được gì thì bố sẽ xem bé như trẻ con cho xem. Nếu thế thì xấu hổ lắm! Nghĩ đến đó, bé thở dài và trở về phòng. Hồi hộp, bé đi dọc hành lang, đến cửa chính để kiểm tra: cửa đã khóa kỹ. Nơi mắc áo gắn trên tường, gằn cửa, có treo cây dù. Bé cầm lấy nó, chĩa cái mũi nhọn về phía trước, đi vào phòng khách, bật sáng đèn và quan sát mọi nơi. Rồi bé sang phòng ăn và căn bếp nhỏ hình chữ L.

Không có gì khác thường cả.

Phía trên bồn rửa chén, cửa sổ để mở. Không khí lạnh tháng mười hai len qua khe hở khoảng vài chục phân thổi vào.

Penny biết rõ cái cửa sổ này đã được đóng lại và cài chốt lúc chập tối, trước khi cô bé đi ngủ. Bé biết chắc như thế. Nếu sau đó bố có mở ra để hít thở đôi chút khí trời thì hẳn bố đã đóng lại rồi.

Kéo chiếc ghế lại gần bồn rửa chén, bé leo lên đẩy cửa để có thể nghiêng người nhìn ra ngoài. Cơn gió lạnh buốt khiến bé nhăn mặt. Mọi vật đều yên tĩnh. Dọc theo tòa nhà, gần cửa sổ phòng ngủ, có một cái thang cấp cứu bằng sắt chạy thẳng xuống con hẻm. Nhưng phía căn bếp thì chẳng có thang cũng chẳng có mép tường. Chẳng một phương tiện khả dĩ để cho kẻ trộm có thể leo lên hoặc bám vào để xâm nhập cả. Bé biết thứ tiếng động phát ra lúc nãy không phải do trộm bởi hắn không thể nào núp dưới giường của bé được.

Penny đóng cửa sổ lại, đặt chiếc ghế vào chỗ cũ. Bé miễn cưỡng cất cây dù. Luyến tiếc phải rời bỏ vũ khí, bé tắt đèn và không dám nhìn về khoảng tối đằng sau. Bé về phòng, nằm xuống giường và kéo chăn lên cổ.

Davey vẫn ngon giấc. Bên ngoài cửa sổ, gió đêm rít lên từng cơn. Xa xa có tiếng còi hụ thê lương của một xe cấp cứu.

Penny ngồi dậy, tựa người vào gối kê, dưới vùng sáng che chở của ngọn đèn ngủ. Bé cảm thấy thiu thiu, muốn ngả lưng xuống nhưng lại sợ phải tắt đèn. Nỗi sợ làm bé khó chịu. Bé thầm nghĩ: Ta đã lớn rồi chứ? Kể từ khi mẹ mất, ta đã là người nội trợ cai quản gia đình mà. Khoảng mười phút sau, tự ái nổi lên, bé tắt đèn và ngã người xuống giường. Tuy vậy, tâm trí bé vẫn còn ray rứt. Bé thầm nghĩ: Đó là cái gì chứ?

Bé chờ đợi...

Im lặng...

Rồi bé chìm vào giấc ngủ.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đêm Đen Buông Xuống PDF của tác giả Dean R Koontz nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đăng nhập để đọc

Chúa Sẽ Phù Hộ Em (Cố Khúc)
Trong tiếng Urdu, “Tạm biệt” là “Khuda hafiz”. “Khuda” là Thượng đế của người Ba Tư, còn “Hafiz” bắt nguồn từ chữ “Hifz” trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là “bảo vệ”. Cho nên câu nói này có thể được hiểu là: “Chúa sẽ phù hộ bạn”. Nó được sử dụng phổ biến trong cộng đồng người theo và không theo đạo Hồi. Tại vùng Tây Bắc Pakistan, đặc biệt là hai bên đèo Khyber gần Afghanistan, khi tạm biệt hoặc biết sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa, người ta sẽ nói: “Khuda hafiz - Chúa sẽ phù hộ bạn!”. Khi mới bắt đầu học tiếng Urdu, cô cảm thấy câu nói này là lời từ biệt đẹp nhất trên thế gian. “Chúa sẽ phù hộ em!”, khi nói lưỡi hơi cong về phía sau, nhẹ nhàng thốt ra. Khi nói như thế, ngay đến ánh mắt cũng sẽ trở nên rất đỗi dịu dàng. Cô đã không biết thì ra khi một người không thể ở bên đối phương được nữa, họ cũng sẽ nói như vậy, Chúa sẽ phù hộ cho em, chứ không phải cho tôi.***Thực ra mọi câu chuyện đều bắt nguồn từ một thành phố xa lạ, một người đàn ông đến cùng những điều kì diệu lạ thường. - Gregory - Tìm mua: Chúa Sẽ Phù Hộ Em TiKi Lazada Shopee Nếu một người chỉ trong vài ngày ngắn ngủi rơi vào cảnh bị phản bội, người yêu chia tay và mất việc, tôi nghĩ họ cũng sẽ như tôi, lập tức gật đầu đồng ý với tâm trạng gần như muốn tự sát và dõng dạc nói: “Được, tôi đi!” Ngô Chung lập tức nhướng mày nhìn tôi. Nhiều năm kinh nghiệm trong ngành kinh doanh khiến tôi lập tức hiểu ra mình đã nhận lời nhanh hơn ông ta tưởng rất nhiều. Nhưng thế thì đã sao chứ, đầu tôi đang đau như búa bổ đây, chỉ mong ông chủ Ngô có thể sớm rời khỏi căn phòng này càng sớm càng tốt. Cần làm gì thì cứ làm đi, để tôi còn lên giường ngủ tiếp chứ! Tuy nhiên, Ngô Chung lại không hề có ý định buông tha cho tôi. Ông ta nhìn tôi chằm chằm, hỏi lại: “Cô thực sự đồng ý chứ?” Tôi gật đầu, tại sao lại không đồng ý chứ, chỉ cần cho tôi rời khỏi cái nơi đau thương, bảo tôi lên mặt trăng cũng được, huống hồ chỉ là một Pakistan bé tí bé teo, diện tích cả nước còn chưa bằng một phần mười Trung Quốc. Chỉ có điều, không ngờ Ngô Chung lại bảo tôi, một nhân viên văn phòng không quyền không thế, đi tìm cô ta. Ngô Chung được tạp chí Forbes xếp vào danh sách những người giàu có nhất Trung Quốc, ông ta không chỉ là chủ tập đoàn Hoàn Á mà còn sở hữu công ty ở nước ngoài, chen chân vào nhiều lĩnh vực như bất động sản, năng lượng…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Sẽ Phù Hộ Em PDF của tác giả Cố Khúc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúa Ruồi (William Golding)
"Chúa Ruồi" là tác phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của William Golding. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Từ trong lịch sử phát triển của nhân loại, ánh lửa đã là một biểu tượng mang những ý nghĩa đối lập nhau. Ánh lửa vừa gợi lên không khí ấm áp, quây quần của những buổi hội họp lại vừa là một mối họa hủy diệt bởi lửa có thể thiêu đốt mọi thứ ngáng đường nó. Trong "Chúa Ruồi", ánh lửa là nguồn gốc nảy sinh mối xung đột không thể giải quyết giữa Ralph và Jack. Với tư cách là người đứng đầu, Ralph luôn tâm niệm việc thắp lên ngọn lửa để tàu thuyền có thể trông thấy và đến cứu là công việc hệ trọng nhất đối với lũ trẻ. Cậu bé tìm mọi cách để khiến lũ trẻ hiểu ra điều đó song đó là một nỗ lực vô vọng bởi hầu hết bọn trẻ không thể tập trung làm việc gì quá 5 phút và chúng dễ bị thu hút bởi những hoạt động huyên náo hơn là ngồi một chỗ và trông chừng đống lửa. Đi ngược lại với nỗ lực của Ralph, Jack chỉ quan tâm đến việc đi săn. Niềm say mê săn đuổi đã xâm chiếm tâm hồn cậu bé và lây lan nhanh chóng trong đám trẻ. Jack cũng sớm nhận ra việc kiếm được thịt tạo cho nó quyền chỉ huy đám trẻ. Đối với Jack, ngọn lửa không có ý nghĩa là một tín hiệu cầu cứu bởi nó đã thích nghi được với hoàn cảnh khắc nghiệt trên đảo hoang. Nó sẵn sàng hạ những nhát dao chí tử vào các con mồi để duy trì sự sống và nhất là sự quyền lãnh đạo tối cao của mình. Với Jack, ngọn lửa bập bùng là thứ để nấu chin thức ăn cho buổi tiệc tùng man dại. Điệu nhảy xung quanh ánh lửa của những bộ mặt nạ vằn vện biến chúng thành một lũ mọi. Sự giao tranh khốc liệt giữa hai phe luôn được hỗ trợ bởi những tia sét rạch ngang bầu trời và đó là những điềm báo đầy tai ương với cuộc sống của lũ trẻ. Mặc dù cuối cùng, hành động thắp lên ngọn lửa biến hòn đảo trở thành một đảo lửa của Ralph đã giúp tàu hải quân phát hiện và cứu lũ trẻ xong ám ảnh về ánh lửa và những cuộc tranh giành tàn bạo để có được ngọn lửa vẫn sẽ ám ảnh lũ trẻ. Chúng có thể bước ra khỏi làn khói mịt mờ của khu rừng trên hoang đảo nhưng chúng sẽ phải đạt chân vào một thế giới ghê rợn hơn. Đó là cuộc chiến tranh nguyên tử của người lớn. Ánh lửa lại làm một ranh giới đưa chúng từ một bi kịch nhỏ đến một bi kịch lớn hơn và lần này, liệu chúng có may mắn được cứu thoát? Tìm mua: Chúa Ruồi TiKi Lazada Shopee Hòa mình với cuộc sống hoang dã, những đứa trẻ dần quên đi nền văn minh đang tồn tại bên ngoài hòn đảo. Dưới sự lôi kéo của Jack, lũ trẻ từ bỏ những chiếc lều bên bãi biển để sống trong hang đá. Hình dáng những cậu bé đáng yêu không còn mà thay vào đó là những tên mọi tí hon vẽ mặt vằn vện. Chính cái mặt nạ đó đã khiến chúng "không còn biết xấu hổ dưới ánh mặt trời". Với giọng văn lạnh lùng và đanh thép, William Golding đã miêu tả hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ bị bỏ rơi trên đảo hoang. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Tác giả: William Gerald Golding sinh năm 1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt nghiệp, Golding lấy thêm bằng sư phạm và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ năm 1935 đến 1940, trong đó có một trường dành riêng cho nam sinh. Năm 1940, khi thế chiến II bùng nổ, Golding phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Golding từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên Normandie (Pháp) năm 1944 của quân Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết thúc, ông trở lại với nghề sư phạm. Golding cho rằng những thảm họa ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự dã man của con người, đặc biệt là tội ác diệt chủng của Đức Quốc xã… tất cả chỉ có thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh. Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của Golding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến bi thảm trong cuộc sống của mấy chục đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi may mắn sống sót trên một hoang đảo ở Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng… Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ và biểu tượng. Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất bản ở Anh đã từ chối bản thảo của Golding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà xuất bản Faber and Faber tại London phát hành, song chẳng gây được tiếng vang gì. Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ. Điều này không thể giải thích rằng “Bụt chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng, được đưa vào giáo trình văn học ở Anh, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn được dựng thành phim hai lần - năm 1963 và 1990. Sau Chúa Ruồi, Golding còn cho ra đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ Thiện và Ác của con người. Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa Ruồi, đoạt giải Booker. Năm 1983 Golding được trao giải Nobel văn học vì sự nghiệp của ông. Năm 1988 ông được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước Sir. William Golding mất ngày 19 tháng Sáu 1993. Đánh giá: “Nếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành địa ngục.” - The Times Trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên “may mắn” sống sót trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh. Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây thơ - từ đây thực tại của chúng tan hòa vào ác mộng. Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã khiến các nhà phê bình văn học hao tốn giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề: Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay chăng là… ngược lại? “Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê, nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ. Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng gần nhất với thực tại.” - The New York TimesĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Ruồi PDF của tác giả William Golding nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúa Ruồi (William Golding)
"Chúa Ruồi" là tác phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của William Golding. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Từ trong lịch sử phát triển của nhân loại, ánh lửa đã là một biểu tượng mang những ý nghĩa đối lập nhau. Ánh lửa vừa gợi lên không khí ấm áp, quây quần của những buổi hội họp lại vừa là một mối họa hủy diệt bởi lửa có thể thiêu đốt mọi thứ ngáng đường nó. Trong "Chúa Ruồi", ánh lửa là nguồn gốc nảy sinh mối xung đột không thể giải quyết giữa Ralph và Jack. Với tư cách là người đứng đầu, Ralph luôn tâm niệm việc thắp lên ngọn lửa để tàu thuyền có thể trông thấy và đến cứu là công việc hệ trọng nhất đối với lũ trẻ. Cậu bé tìm mọi cách để khiến lũ trẻ hiểu ra điều đó song đó là một nỗ lực vô vọng bởi hầu hết bọn trẻ không thể tập trung làm việc gì quá 5 phút và chúng dễ bị thu hút bởi những hoạt động huyên náo hơn là ngồi một chỗ và trông chừng đống lửa. Đi ngược lại với nỗ lực của Ralph, Jack chỉ quan tâm đến việc đi săn. Niềm say mê săn đuổi đã xâm chiếm tâm hồn cậu bé và lây lan nhanh chóng trong đám trẻ. Jack cũng sớm nhận ra việc kiếm được thịt tạo cho nó quyền chỉ huy đám trẻ. Đối với Jack, ngọn lửa không có ý nghĩa là một tín hiệu cầu cứu bởi nó đã thích nghi được với hoàn cảnh khắc nghiệt trên đảo hoang. Nó sẵn sàng hạ những nhát dao chí tử vào các con mồi để duy trì sự sống và nhất là sự quyền lãnh đạo tối cao của mình. Với Jack, ngọn lửa bập bùng là thứ để nấu chin thức ăn cho buổi tiệc tùng man dại. Điệu nhảy xung quanh ánh lửa của những bộ mặt nạ vằn vện biến chúng thành một lũ mọi. Sự giao tranh khốc liệt giữa hai phe luôn được hỗ trợ bởi những tia sét rạch ngang bầu trời và đó là những điềm báo đầy tai ương với cuộc sống của lũ trẻ. Mặc dù cuối cùng, hành động thắp lên ngọn lửa biến hòn đảo trở thành một đảo lửa của Ralph đã giúp tàu hải quân phát hiện và cứu lũ trẻ xong ám ảnh về ánh lửa và những cuộc tranh giành tàn bạo để có được ngọn lửa vẫn sẽ ám ảnh lũ trẻ. Chúng có thể bước ra khỏi làn khói mịt mờ của khu rừng trên hoang đảo nhưng chúng sẽ phải đạt chân vào một thế giới ghê rợn hơn. Đó là cuộc chiến tranh nguyên tử của người lớn. Ánh lửa lại làm một ranh giới đưa chúng từ một bi kịch nhỏ đến một bi kịch lớn hơn và lần này, liệu chúng có may mắn được cứu thoát? Tìm mua: Chúa Ruồi TiKi Lazada Shopee Hòa mình với cuộc sống hoang dã, những đứa trẻ dần quên đi nền văn minh đang tồn tại bên ngoài hòn đảo. Dưới sự lôi kéo của Jack, lũ trẻ từ bỏ những chiếc lều bên bãi biển để sống trong hang đá. Hình dáng những cậu bé đáng yêu không còn mà thay vào đó là những tên mọi tí hon vẽ mặt vằn vện. Chính cái mặt nạ đó đã khiến chúng "không còn biết xấu hổ dưới ánh mặt trời". Với giọng văn lạnh lùng và đanh thép, William Golding đã miêu tả hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ bị bỏ rơi trên đảo hoang. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người. Tác giả: William Gerald Golding sinh năm 1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt nghiệp, Golding lấy thêm bằng sư phạm và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ năm 1935 đến 1940, trong đó có một trường dành riêng cho nam sinh. Năm 1940, khi thế chiến II bùng nổ, Golding phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Golding từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên Normandie (Pháp) năm 1944 của quân Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết thúc, ông trở lại với nghề sư phạm. Golding cho rằng những thảm họa ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự dã man của con người, đặc biệt là tội ác diệt chủng của Đức Quốc xã… tất cả chỉ có thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh. Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của Golding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến bi thảm trong cuộc sống của mấy chục đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi may mắn sống sót trên một hoang đảo ở Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng… Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ và biểu tượng. Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất bản ở Anh đã từ chối bản thảo của Golding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà xuất bản Faber and Faber tại London phát hành, song chẳng gây được tiếng vang gì. Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ. Điều này không thể giải thích rằng “Bụt chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng, được đưa vào giáo trình văn học ở Anh, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn được dựng thành phim hai lần - năm 1963 và 1990. Sau Chúa Ruồi, Golding còn cho ra đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ Thiện và Ác của con người. Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa Ruồi, đoạt giải Booker. Năm 1983 Golding được trao giải Nobel văn học vì sự nghiệp của ông. Năm 1988 ông được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước Sir. William Golding mất ngày 19 tháng Sáu 1993. Đánh giá: “Nếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành địa ngục.” - The Times Trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên “may mắn” sống sót trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh. Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây thơ - từ đây thực tại của chúng tan hòa vào ác mộng. Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã khiến các nhà phê bình văn học hao tốn giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề: Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay chăng là… ngược lại? “Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê, nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ. Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng gần nhất với thực tại.” - The New York TimesĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Ruồi PDF của tác giả William Golding nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chúa Đảo Xa (Victoria Holt)
Eleanor Alice Burford Hibbert (1906 - 1993) Các bút danh của bà: Jean Plaidy, Eleanor Burford, Philippa Carr, Elbur Ford, Victoria Holt, Kathleen Kellow, Anna Percival, Ellalice Tate Victoria Holt là một trong rất nhiều bút danh của tiểu thuyết gia nổi tiếng người Anh, Eleanor Alice Burford Hibbert (1906 - 1993). Bà là tác giả của hơn 200 tiểu thuyết nổi tiếng thế giới. Mặc dầu 1 số nhà phê bình cho rằng tác phẩm của bà là những tiểu thuyết phi thực tế, nhiều nhà phê bình văn học khác lại đánh giá bà là một nhà văn tài năng. Trong các tác phẩm của mình, bà đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về lịch sử, văn hoá và đời sống tâm hồn con người. Nhiều hình tượng nhân vật nữ rất đẹp, rất điển hình của bà đã làm nên tên tuổi, sự nghiệp của một Hibbert được mệnh danh là “Nữ Hoàng của tiểu thuyết tình cảm - gay cấn”, giúp bà nhận được sự hâm mộ của hàng triệu bạn đọc trên thế giới. Sách của bà được dịch ra trên 20 thứ tiếng. Hibbert viết truyện từ lúc còn rất trẻ nhưng mãi đến năm 1947, tác phẩm đầu tay của bà mới ra mắt bạn đọc, Bên kia dãy núi xanh là cuốn đầu tiên trong số 90 tiểu thuyết tình cảm - lịch sử (Historical novel) bà viết dưới cái tên Jean Plaidy. Tuy vậy, phải đợi đến lúc Hibbert lọt vào mắt xanh của một ông bầu văn chương người Mỹ, người cho rằng bà có đầy đủ các tố chất để trở thành một trong những tiểu thuyết gia ăn khách nhất của thế kỷ 20 thì sự nghiệp văn chương của bà mới phát triển đến đỉnh cao. Kể từ đấy, dưới cái tên Victoria Holt, bà tập trung vào thể loại tiểu thuyết tình cảm trong đó các yếu tố lãng mạn kết hợp với các tình huống gây cấn theo phong cách Gothic, rất hợp với việc khai thác những bí mật đen tối trong lịch sử cũng như trong đời sống con người. Cuốn Người tình của Mellyn xuất bản năm 1960 là cuốn đầu tiên trong 32 cuốn viết theo phong cách này. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng bà viết trước lúc qua đời là Viên ngọc đen (The Black Opal). Tìm mua: Chúa Đảo Xa TiKi Lazada Shopee Hibbert hoàn toàn giữ bí mật về ngày sinh và những biến cố trong đời, vì thế người đời không được biết nhiều về cá tính và cuộc đời bà, trừ một điểm bà là một trong số ít nữ sĩ có nhiều đầu sách bán chạy nhất và trong cuộc đời hữu hạn của mình đã viết gần 200 tiểu thuyết lớn nhỏ. Nhóm thực hiện Victoria Holt Project xin giới thiệu lần lượt 3 tác phẩm, tiếp theo tác phẩm đã được đăng ebook trên TVE là Niềm kiêu hãnh Con Công (The pride of the Peacock). Gồm có: Quyển thứ 1: Mối thù tơ lụa (The Silk Vendetta) Quyển thứ 2: Chúa đảo xa (Lord of the far island) Quyển thứ 3: Mùa trăng của người thợ săn (The time of the hunter’s moon) *** Sau đêm vũ hội của Esmeralda, tôi ngủ thiếp đi trong một giấc mơ hãi hùng. Giấc mơ, lần đầu tiên xuất hiện khi tôi mười chín tuổi. Tất cả đều mơ hồ nhưng cũng gây cho tôi bao lo sợ xa xôi. Khi tỉnh dậy, tôi hoảng hốt khiếp sợ không sao lý giải nổi một cách xác thực những gì đã diễn ra, chỉ linh cảm thấy một sự hẩm hiu đang mong chờ đợi. Trong giấc mơ, tôi đi vào một căn phòng giống như một quán nhậu. Trong phòng có một cái lò sưởi xây bằng gạch. Ngay cạnh ống khói, trên tường treo một tấm thảm đỏ sậm cùng màu với tấm thảm thô ráp trải trên nền nhà, khiến cho căn phòng tối tăm càng trở nên u ám. Tiếp đến là bức tranh “bão biển”… một bộ bàn tròn được đặt ngay dưới bức tranh cùng với mấy cái ghế đặt lỏng chỏng xung quanh. Đột nhiên… có tiếng nói từ một noi bí mật vang lên, tôi đứng chết lặng, toàn thân tê liệt không sao cử động nổi. Ú ớ… mãi, tôi mới choàng dậy được, mồ hôi trên người túa ra ướt đẫm. Một năm trôi qua, tôi tưởng giấc mơ đã trôi vào quên lãng, nhưng không ngờ nó vẫn quay trở lại. Vẫn căn phòng nhỏ xíu tối tăm với màu đỏ sậm… tất cả gần như cũ, không có gì thay đổi ngoài một chi tiết mới, ở góc phòng xuất hiện cái ghế cong bập bênh, tuy nhiên nỗi khiếp đảm thì không hề suy giảm. Tôi nằm trên giường trằn trọc suy nghĩ, tại sao căn phòng quái ác đó lúc nào cũng đi vào cơn ác mộng? Tại sao tôi phải chịu nỗi kinh hoàng khủng khiếp đến như vậy? Tất cả điều đó có thể là kết quả của sự tưởng tượng quá mức gây ra chăng? Nhưng không hiểu tại sao nó cứ lặp đi lặp lại hoài như thế? Tuy nhiên tôi cố giữ kín, không kể cho ai biết điều ngốc ngếch tẻ nhạt ấy. Nhưng chắc chắn nó không đem lại cho tôi một dấu hiệu tốt đẹp nào trong tương lai, mà nó chính là hồi chuông cảnh tỉnh đang rung lên báo hiệu sự nguy hểm sắp xảy ra với tôi. Tôi không muốn cường điệu sự tưởng tượng của mình một chút nào. Cuộc sống của tôi vốn đã ghồ ghề khốc liệt. Ngay từ nhỏ, tôi đã sớm bị quăng vào nhà dì Agatha, chao ôi điều này cũng là may cho tôi ghê lắm, nếu không tôi đã trở thành đứa trẻ trong trại mồ côi. Dù sao ở đây tôi được học, được chơi cùng với Esmeralda con của dì… và luôn luôn ghi nhớ công ơn của dì. Tôi không bao giờ dám coi thường mối quan hệ họ hàng, bởi đó là cái cầu thang cho tôi bước vào nhà dì, để trở thành một thành viên chính thức của gia đình. Cho nên kể về dì Agatha - người em họ của mẹ tôi xem ra không được thích hợp cho lắm. Dì Agatha là một phụ nữ khác thường. Dì thống trị gia đình không phải chỉ bằng cái thân hình lực lưỡng quá khổ, mà còn bằng cái giọng nói choang choang phun ra lửa. Đến nỗi, ngay cả dượng William, chồng dì vốn không phải là một người đàn ông quá nhỏ con cũng phải chịu lùi bước. Trước dì và con gái, dượng giống như một chú hề trong rạp xiếc. Cho dù dượng William là một người giàu có, am hiểu kinh doanh, say mê công việc, nhưng sức mạnh của dượng chỉ được thể hiện ở ngoài đường, còn ở trong nhà dượng hoàn tàn bị khuất phục bởi người vợ quá mạnh mẽ. Tuy dượng là người kín đáo, nhưng đôi khi cũng để lộ ra nụ cười ánh mắt thân thiện, an ủi tôi một đứa trẻ côi cút. Tôi nghĩ, dượng có thể là một người đàn ông đàng hoàng nếu dượng bốc lửa một chút, cho dù dì Agatha có là một phụ nữ nổi tiếng, xuất sắc như thế nào. Dì Agatha vốn là một ủy viên trong ủy ban Phụ nữ. Hàng ngày, dì đi tiếp những phụ nữ kém may mắn. Tôi giúp dì pha trà, mang bánh ra ngoài phòng mời khách… Với cái nhìn thiện cảm, dì khen ngợi: - Được đấy, Ellen bé bỏng, ở nhà không làm gì thì buồn chết đi được. Đôi khi Esmeralda cũng giúp tôi mang bánh lên, rót trà vào từng cái ly đặt làm tràn cả ra ngoài. Emeralda là một cô gái nhu mì, dễ thương! Khác hẳn với mẹ, không ai có thể tin được cô là con của bà chủ. Dì Agatha tỏ ra rất khó chịu khi người ta mắc lỗi, tôi luôn giúp đỡ Emeralda tránh khỏi lỗi lầm, với lòng nhiệt tình đôi khi vượt ra ngoài khuôn phép. - Esmeralda, hãy giữ cho vai ngay ngắn, em đừng để thõng xuống như thế xấu lắm. - Hoặc tôi nhắc nhở, - Hãy cầu nguyện đi Emeralda, đừng có lầm bầm như vậy, không tốt đâu. Esmeralda là một cái tên đẹp, nhưng cô không xứng đáng với nó. Mắt cô màu xanh ngấn lệ, tóc dài lơ thơ như liễu rủ… Tôi thường giúp cô làm toán, viêt tiểu luận,… lúc nào cô cũng gắn bó với tôi như hình với bóng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Đảo Xa PDF của tác giả Victoria Holt nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Fatal error: Uncaught Error: Call to a member function queryFirstRow() on null in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php:6 Stack trace: #0 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index_congdong.php(98): require_once() #1 /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/index.php(8): require_once('/home/admin/dom...') #2 {main} thrown in /home/admin/domains/thuviennhatruong.edu.vn/public_html/view/congdong/layout/footer.php on line 6